25/04/2024 11:09Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Sở kiến hành
所見行

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 19/12/2005 12:46

 

Nguyên tác

有婦攜三兒,
相將坐道旁。
小者在懷中,
大者持竹筐。
筐中何所盛,
藜藿雜枇糠。
日晏不得食,
衣裙何框禳。
見人不仰視,
淚流襟浪浪。
群兒且喜笑,
不知母心傷。
母心傷如何,
歲饑流異鄉。
異鄉稍豐熟,
米價不甚昂。
不惜棄鄉土,
苟圖救生方。
一人竭傭力,
不充四口糧。
沿街日乞食,
此計安可長。
眼下委溝壑,
血肉飼豺狼。
母死不足恤,
撫兒增斷腸。
奇痛在心頭,
天日皆為黃。
陰風飄然至,
行人亦悽惶。
昨宵西河驛,
供具何張黃。
鹿筋雜魚翅,
滿棹陳豬羊。
長官不下箸,
小們只略嘗。
撥棄無顧惜,
鄰狗厭膏粱。
不知官道上,
有此窮兒娘。
誰人寫此圖,
持以奉君王。

Phiên âm

Hữu phụ huề tam nhi,
Tương tương toạ đạo bàng.
Tiểu giả tại hoài trung,
Đại giả trì trúc khuông.
Khuông trung hà sở thịnh,
Lê hoắc tạp tì khang.
Nhật án bất đắc thực,
Y quần hà khuông nhương.
Kiến nhân bất ngưỡng thị,
Lệ lưu khâm lang lang.
Quần nhi thả hỉ tiếu,
Bất tri mẫu tâm thương.
Mẫu tâm thương như hà,
Tuế cơ lưu dị hương.
Dị hương sảo phong thục,
Mễ giá bất thậm ngang.
Bất tích khí hương thổ,
Cẩu đồ cứu sinh phương.
Nhất nhân kiệt dung lực,
Bất sung tứ khẩu lương.
Duyên nhai nhật khất thực,
Thử kế an khả trường.
Nhãn hạ uỷ câu hác,
Huyết nhục tự sài lang.
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
Âm phong phiêu nhiên chí,
Hành nhân diệc thê hoàng.
Tạc tiêu Tây Hà[1] dịch,
Cung cụ hà trương hoàng.
Lộc cân tạp ngư sí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cố tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
Bất tri quan đạo thượng,
Hữu thử cùng nhi nương.
Thuỳ nhân tả thử đồ,
Trì dĩ phụng quân vương.

Dịch nghĩa

Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Đứa nhỏ trong bụng mẹ
Đứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Đêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Đám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Đem dâng lên nhà vua

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Một mẹ dắt ba con
Cùng nhau ngồi vệ đường
Đứa nhỏ nằm bụng mẹ
Đứa lớn giỏ tre mang
Trong giỏ đựng chi lắm?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Trưa rồi chửa được ăn
Áo quần, ôi rách thảm
Thấy người không ngẩng đầu
Vạt áo dòng lệ mau
Lũ con mải nô giỡn
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói đến làng nào
Mùa màng thu hoạch tốt
Giá gạo không quá cao
Miễn tìm ra cách sống
Bỏ làng nước biết sao
Một người làm hết sức
Không đủ bốn miệng ăn
Ngày ngày đi khất thực
Cách ấy mãi sao đang
Mai bỏ xác bên ngòi
Máu thịt nuôi hùm sói
Mẹ chết đã đành rồi
Ôm con lòng đau nhói
Đau xót tận tim gan
Mặt trời phải úa vàng
Gió lạnh bỗng ào tới
Khách qua cũng đoạn tràng
Đêm qua trạm Tây Hà
Mở tiệc thật xa hoa
Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn dê, lợn, gà
Quan lớn không đụng đũa
Quân hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó xóm chê thịt thà
Không biết trên đường cái
Mẹ con khổ dường này
Ai vẽ bức tranh ấy
Dâng cho nhà vua hay
[1] Thuộc tỉnh Sơn Tây.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Sở kiến hành