30/03/2024 03:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khốc Lý thượng thư Chi Phương
哭李尚書之芳

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 23/05/2015 10:40

 

Nguyên tác

漳濱與蒿里,
逝水竟同年。
欲掛留徐劍,
猶回憶戴船。
相知成白首,
此別間黃泉。
風雨嗟何及,
江湖涕泫然。
修文將管輅,
奉使失張騫。
史閣行人在,
詩家秀句傳。
客亭鞍馬絕,
旅櫬網蟲懸。
復魄昭丘遠,
歸魂素滻偏。
樵蘇封葬地,
喉舌罷朝天。
秋色凋春草,
王孫若個邊。

Phiên âm

Chương tân dữ Hao lý[1],
Thệ thuỷ cánh đồng niên.
Dục quải lưu Từ kiếm[2],
Độc hồi ức Đới thuyền[3].
Tương tri thành bạch thủ,
Thử biệt gián hoàng tuyền.
Phong vũ[4] ta hà cập,
Giang hồ thế huyễn nhiên.
Tu văn tương Quản Lộ[5],
Phụng sứ thất Trương Khiên[6].
Sử các hành nhân tại,
Thi gia tú cú truyền.
Khách đình yên mã tuyệt,
Lữ thấn võng trùng huyền.
Phục phách chiêu khâu viễn,
Quy hồn tố Sản thiên.
Tiều tô phong táng địa
Hầu thiệt bãi triều thiên.
Thu sắc điêu xuân thảo,
Vương tôn[7] nhược cá biên.

Dịch nghĩa

Bến sông Chương với làng Hao,
Nước chảy trong cùng một năm.
Muốn đeo, nhưng lưu lại thanh gươm dành cho Từ Quân,
Còn quay lại nhớ thuyền thăm Đới An Đạo.
Biết nhau cho tới khi đầu bạc,
Cuộc chia tay lần này là xuống suối vàng.
Gió mưa cũng chẳng đủ,
Nơi sông hồ nước mắt tràn trề.
Học văn gần được như Quản Lộ,
Công tác đi sứ vượt Trương Khiên.
Gác ghi sổ, vị coi giữ nhiêm vụ đó như còn ở lại,
Câu thơ hay của nhà thơ được truyền tụng.
Nơi đình khách thôi vắng yên ngựa,
Quan tài nơi đất khách tơ nhận giăng.
Phách tới mả sáng rực nơi xa,
Hồn về tới sông Sản hẻo lánh.
Cỏ tía phủ lên vùng đất chôn ông,
Tiếng nói thôi hết được nghe nơi buổi chầu vua.
Sắc thu làm héo cỏ xuân,
Vương tôn như ở ngay bên cạnh.

Bản dịch của Phạm Doanh

Bến sông Chương, bãi tha ma,
Nước trôi mà hoá đời lìa cùng năm.
Gươm Từ muốn để, lại cầm,
Đi về thuyền Đới nhớ thăm hôm nào.
Quen nhau cho tới bạc đầu,
Suối vàng ngăn cách trước sau từ rày.
Gió mưa than cũng chưa tầy,
Sông hồ lệ giỏ đoạ đầy biết bao.
Luyện văn, Quản lộ giống sao,
Tài đi sứ, Trương Khiên, cao nào bằng.
Nơi ghi sổ, người như đang,
Nhà thơ, câu đẹp còn vang trong đời.
Nhà khách xe ngựa hết rồi,
Quan tài đất khách nhện thời giăng tơ.
Nơi xa, phách tới bên gò,
Hồn về sông Sản để mà nghỉ ngơi.
Bãi tha ma, cỏ bời bời,
Tiếng vang thôi hết ở nơi vua bàn.
Cỏ xuân, thu khiến điêu tàn,
Hình như vẫn thấy vương tôn bên mình.
(Năm 768)

[1] Phiếm chỉ bãi tha ma, nghĩa địa.
[2] Ngô Quý Trát đi thăm nước Tấn, gặp Từ Quân, biết Từ Quân thích cây kiếm quý của mình. Khi trở về, Từ Quân đã chết, nhưng vẫn treo kiếm trước mộ.
[3] Thuyền của Vương Tử Du đời Tấn dùng để đi thăm Đới An Đạo.
[4] Chữ từ Kinh thi, thiên Phong vũ, nói lòng nhớ bậc quân tử.
[5] Người nước Nguỵ, thông Kinh dịch, giỏi bói toán.
[6] Người thời Tây Hán, do quân công mà được phong tước là Bác Vọng hầu, giữ chức trung lang tướng.
[7] Lý Chi Phương thuộc họ vua, mang tước Hán Trung vương.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Khốc Lý thượng thư Chi Phương