22/05/2024 00:34Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đệ thập tam cảnh - Linh quán khánh vận
第十三景-靈觀磬韻

Tác giả: Thiệu Trị hoàng đế - 紹治皇帝

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi YensidTim vào 09/11/2020 07:47

 

Nguyên tác

彼此無關漢道恢,
徇民存古樂春臺。
齋明盛服徒爲耳,
戛擊鳴球入妙哉。
膩玉奇聞通覺悟,
浮金餘響自登來。
懸黎明曲雖相間,
總是優游壽域開。

Phiên âm

Bỉ thử vô quan hán đạo khôi,
Tuẫn dân tồn cổ lạc xuân đài[1].
Trai minh thịnh phục đồ vi nhĩ,
Kiết kích minh cầu nhập diệu tai.
Nhị ngọc kỳ văn thông giác ngộ,
Phù kim dư hưởng tự đăng lai.
Huyền lê[2] minh khúc tuy tương gián,
Tổng thị ưu du thọ vực khai.

Dịch nghĩa

Việc dựng quán chẳng liên quan gì đến việc khôi phục Đạo gia thời nhà Hán,
Mà chỉ vì theo ý dân trong thời thịnh trị thích tồn cổ.
Trai giới, áo quần tề chỉnh, chỉ cần làm như vậy,
Đánh khánh ngọc lên thật là huyền diệu thay.
Tiếng ngọc linh hoạt nghe diệu kì như đạt đến giác ngộ.
Tiếng kim (chuông) nổi lên là đạt đến sự mong cầu.
Điệu đánh tiếng khánh tuy có gián đoạn,
Nhưng nói chung đưa con người đến cõi lâu dài.

Bản dịch của Vĩnh Cao

Đạo gia nào đáng được trùng tân,
Tráng lệ cảnh xưa nghĩ đến dân.
Lễ phục giới trai theo phép tắc,
Chuông vành khánh gióng nhập tiên thần.
Du dương tiếng ngọc thông tri giác,
Văng vẳng âm kim đạt thánh ân.
Thong thả thanh vang tuỳ điệu khú,
Tiêu dao mở lối vượt hồng trần.
Lời dẫn: “Linh Hựu quán: Từ Vân các kiến ư đông biên, Tường Quang các cư ư tây hướng, Trùng Tiêu đại điện đoan mục đương trung, Linh Hựu tổng danh trang nghiêm minh chính, giai thần thắng thưởng quan cái[3] tương vọng, hương nguyện đạo trường khỉ la lạc dịch, sanh hoàng tống tấu, chung khánh du dương, triết nhân[4] an hữu thượng thần, tồn cổ diệc vi vận sự.” 靈祐觀:慈雲閣建於東邊,祥光閣居於西向,重霄大殿端穆當中,靈祐總名莊嚴明正,佳晨勝賞冠蓋相望,香願道場綺羅絡繹,笙簧送奏,鐘磬悠揚,哲人安有尚神,存古亦爲韻事。(Quán Linh Hựu: Gác Từ Vân xây nơi đông hướng, lầu Tường Quang dựng ở tây phương, giữa ngay ngắn Trùng Tiêu đại điện, thắng trang nghiêm Linh Hựu cảnh quan. Thắng cảnh buổi đẹp trời mũ lọng hướng về, hương nguyện lúc đạo tràn lụa là nối tiếp chuông khánh du dương, sáo đàn tấu hoạ. Triết nhân nào có chuộng thần, tồn cổ cũng là việc tốt.)

Quán Linh Hựu được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 10 (1829), ở phía bắc Ngự Hà, thuộc địa phận phường An Thịnh (nay thuộc phường Thuận Lộc). Có thể nói Linh Hựu là một đền thờ hiếm hoi của đạo Lão nằm ngay trong kinh thành. Hơn nữa, các pháp sư, đạo sĩ đều được triều đình bổ nhiệm và cấp bổng lộc. Quán gồm có một điện chính là điện Trùng Tiêu, 5 gian; nằm ở giữa, bên trái có gác Từ Vân, bên phải có gác Tường Quang. Hai gác này có kiến trúc tương tự như nhau: tầng dưới 1 gian, 2 chái; tầng trên 1 gian. Bên trái và bên phải còn có hành lang, mỗi bên 5 gian. Trước quán là cổng tam quan, 3 gian và phía trước cổng này còn có một cổng phường môn nữa nằm gần sông Ngự Hà.

Trong vụ thất thú kinh đô (1885), một bộ phận quân Pháp đã vào chiếm đóng khu vực quán và một số công trình khác của triều đình như cung Bảo Định. Về sau, triều đình Huế đã cho triệt giải quán (cũng như đã triệt giải cung Bảo Định) nhưng không thấy sử sách nhắc đến chuyện tái xây dựng công trình này. Hiện nay, số nhà đường Nguyễn Chí Thanh cũng có một ngôi đền nhỏ mang tên quán, không rõ được dựng từ bao giờ. Có người cho rằng, đây chính là quán Linh Hựu có bờ bắc sông Ngự Hà xưa chuyển về, tuy nhiên chưa có bằng chứng cụ thể nào để xác nhận ý kiến này. Tại quán Linh Hựu xưa, sau khi làm bài thơ này, vua Thiệu Trị đã cho khắc vào bia đá và dựng ở đây, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra dấu tích của tấm bia này.

[3] Mũ lọng, chỉ quan lại.
[4] Chữ Khổng Tử tự gọi mình. Trong Kinh lễ, khi sắp mất, Khổng Tử than “Triết nhân kỳ nguy hồ?” (Người hiền triết cũng ốm chết sao?).
[1] Đài mùa xuân, song ở đây dùng chỉ thời thịnh trị (mùa xuân âm dương giao thông, vạn vật cảm ứng, lên đài mà thưởng lãm, ý chí bền bỉ...)
[2] Tên một loại ngọc đẹp. Trong Quốc sách có ghi: “Nước Lương có ngọc huyền lê, nước Sở có ngọc hoa phát, đều là trân bảo trong thiên hạ”.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Thiệu Trị hoàng đế » Đệ thập tam cảnh - Linh quán khánh vận