29/04/2024 09:22Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Vi Phúng lục sự trạch quan Tào tướng quân hoạ mã đồ
韋諷錄事宅觀曹將軍畫馬圖

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 25/10/2005 16:52

 

Nguyên tác

國初已來畫鞍馬,
神妙獨數江都王。
將軍得名三十載,
人間又見真乘黃。
曾貌先帝照夜白,
龍池十日飛霹靂。
內府殷紅瑪瑙盤,
婕妤傳詔才人索。
盤賜將軍拜舞歸,
輕紈細綺相追飛。
貴戚權門得筆跡,
始覺屏障生光輝。
昔日太宗拳毛騧,
近時郭家獅子花。
今之新圖有二馬,
復令識者久歎嗟。
此皆騎戰一敵萬,
縞素漠漠開風沙。
其餘七匹亦殊絕,
迥若寒空動煙雪。
霜蹄蹴踏長楸間,
馬官廝養森成列。
可憐九馬爭神駿,
顧視清高氣深穩。
借問苦心愛者誰,
後有韋諷前支遁。
憶昔巡幸新豐宮,
翠華拂天來向東。
騰驤磊落三萬匹,
皆與此圖筋骨同。
自從獻寶朝河宗,
無復射蛟江水中。
君不見:
金粟堆前松柏裡,
龍媒去盡鳥呼風。

Phiên âm

Quốc sơ dĩ lai hoạ yên mã,
Thần diệu độc số Giang Đô Vương[1],
Tướng quân[2] đắc danh tam thập tải,
Nhân gian hựu kiến chân Thừa Hoàng.
Tằng mạc tiên đế Chiếu Dạ Bạch,
Long trì thập nhật phi tích lịch.
Nội phủ ân hồng mã não bàn.
Tiệp dư truyền chiếu tài nhân sách.
Bàn tứ tướng quân bái vũ quy,
Khinh hoàn tế ỷ tương truy phi,
Quý thích quyền môn đắc bút tích,
Thuỷ giác bình chướng sinh quang huy.
Tích nhật Thái Tông Quyền Mao Qua,
Cận thì Quách gia[3] Sư Tử Hoa.
Kim chi tân đồ hữu nhị mã,
Phục linh thức giả cửu thán ta.
Thử giai kỵ chiến nhất địch vạn,
Cảo tố mạc mạc khai phong sa.
Kỳ dư thất thất diệc thù tuyệt,
Quýnh nhược hàn không động yên tuyết.
Sương đề xúc đạp trường thu gian,
Mã quan tư dưỡng sâm thành liệt.
Khả liên cửu mã tranh thần tuấn,
Cố thị thanh cao khí thâm ổn.
Tá vấn khổ tâm ái giả thuỳ?
Hậu hữu Vi Phúng, tiền Chi Độn[4].
Ức tích tuần hạnh Tân Phong[5] cung,
Thuý hoa phất thiên lai hướng đông.
Đằng tương lỗi lạc tam vạn thất,
Giai dữ thử đồ cân cốt đồng.
Tự tòng hiến bảo triều Hà Tông,
Vô phục xạ giao giang thuỷ trung.
Quân bất kiến:
Kim Túc đôi[6] tiền tùng bách lý,
Long môi khứ tận điểu hô phong!

Dịch nghĩa

Từ đầu triều đại đến nay, trong nghề vẽ ngựa,
Thần diệu bậc nhất là Giang Đô Vương.
Tướng quân nổi tiếng suốt ba chục năm.
Người đời lại thấy con Thừa Hoàng như thật.
Ông từng vẽ con Chiếu Dạ Bạch của tiên đế,
Suốt mười ngày sân rồng nổi sấm sét.
Trong nội phủ có cái mâm mã não hồng,
Bà tiệp dư truyền bảo tài nhân lấy ra.
Vua ban cho, tướng quân lạy tạ, nhảy múa đi về,
Lụa nhẹ, tơ mỏng bay theo phất phơ.
Các bậc tôn thất quan lại được nét vẽ của ông,
Mới thấy bình phong sáng rực.
Xưa kia, con Quyền Mao Qua của Thái Tông,
Gần đây con Sư Tử Hoa của Quách Tử Nghi;
Trong tranh mới bây giờ có hai con ngựa ấy,
Lại khiến người sành điệu trầm trồ mãi.
Đấy là ngựa chiến, một chống được vạn,
Trên tấm the mỏng, gió cát bay tung
Ngoài ra, bảy con khác cũng có nét đẹp riêng,
Dáng mềm mại như ráng tuyết trên bầu trời giá.
Móng sương giày xéo đám lá thu,
Quan coi ngựa, phu nuôi ngựa nhiều vô kể.
Vẻ thần tuấn của chín ngựa đưa đáng mến sao!
ánh mắt trong suốt, khí thế vững vàng.
Xin hỏi ai là kẻ khổ tâm vì yêu tranh vẽ?
Sau này có Vi Phúng, trước kia có Chi Kỳ Độn.
Nhớ xưa vua đi tuần đến cung Tân Phong.
Cờ xí rợp trời hướng về đông.
Ba vạn ngựa phi thật hùng dũng
Gân cốt so với tranh này cũng giống
Từ khi dâng vật quý cho thần sông,
Vua mất không còn bản rồng giữa dòng.
Anh chẳng thấy:
Trước gò Kim Túc, trong đám tùng bách,
Ngựa Long Mai mất hết, chỉ còn chim gọi gió.

Bản dịch của mailang

Mở nước đến giờ yên, ngựa vẽ,
Mỗi mình thần diệu Giang Đô Vương.
Tướng quân ba chục năm danh để,
Người thế, Thừa Hoàng được tỏ tường.
Vẽ con Chiếu Dạ của Tiên Đế,
Mười bữa Dao Trì sấm sét tệ,
Trong phủ có mâm mã não hồng,
Tài nhân thừa chỉ tìm mau lẹ.
Mâm nhận tạ ơn, vui múa về,
Lụa thanh lụa mịn đến ê hề.
Đại thần quốc thích cầu đôi nét,
Tấm chướng bình phong đẹp khỏi chê.
Thái Tông xưa có Quyền Mao Oa,
Họ Quách gần đây Sư Tử Hoa.
Bức vẽ ngày nay hai ngựa đủ,
Làm cho thức giả hết lời ca.
Lính cỡi giống này một địch vạn,
Lụa trắng mênh mông gió cát nhoà.
Còn lại bảy con trông diễm tuyệt,
Xa xăm trời lạnh ráng pha tuyết.
Móng như sương đá đạp cây thu,
Tê dưỡng, mã quan đông hết biết.
Ngựa thần, chín chú như giành lộn,
Trông dáng thanh cao, khí lặng ổn.
Yêu ngựa, hỏi ai đến khổ tâm?
Sau là Vi Phúng, trước Chi Độn.
Nhớ xưa vua ngự cung Tân Phong,
Cờ thuý ngất trời từ hướng đông.
Ba vạn ngựa phi nhanh xuất chúng,
Như tranh, gân cốt cũng tương đồng.
Hà Bá bao giờ bảo vật dâng?
Giao long, thôi bắn giữa dòng sông.
Rừng thông Kim Túc, người chăng thấy?
Chim gọi gió cao, vắng ngựa rồng.
(Năm 764)

[1] Lý Thự, cháu của vua Đường Thái Tông.
[2] Tức Tào Bá.
[3] Tể tướng Quách Tử Nghi.
[4] Chi Kỳ Độn (314-366) tự Đạo Lâm, một nhà sư thời Đông Tấn, tay rành coi ngựa, giỏi viết chữ thảo, lệ, ẩn trong núi Dư Hàng.
[5] Trên núi Ly sơn, còn có tên là Ôn Tuyền, sau đổi là Hoa Thanh.
[6] Nơi chôn Đường Minh Hoàng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Vi Phúng lục sự trạch quan Tào tướng quân hoạ mã đồ