28/04/2024 05:30Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đại tường thượng hao hành
大牆上蒿行

Tác giả: Tào Phi - 曹丕

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Tam Quốc
Đăng bởi Vanachi vào 18/08/2010 22:11

 

Nguyên tác

陽春無不長成。
草木群類隨大風起,
零落若何翩翩,
中心獨立一何煢!
四時舍我馳驅,
我成隱約欲何為?
人生居天地間,
忽如鳥飛棲枯枝。
我今隱約何為?

適君身體所服,
何不姿君口腹所嘗?
冬被貂鼲溫暖,
夏當服綺羅輕涼。
行力自苦,我將欲何為?
不及君少壯之時,
乘堅車策把馬良?
上有倉浪之天,
今我難得久來視;
下有蠕蠕之地,
今我難得永來履。
何不姿意遨遊,
從君所喜?

帶我寶劍,
今爾何為自低昂?
悲麗平壯觀,
白如積雪利秋霜。
駮犀標首,
玉琢中央。
帝王所服,
辟除凶映。
御左右,
奈何致福祥。
吳之辟閭,
越之步光,
楚之龍泉,
韓有墨陽,
苗山之鋌,
羊頭之鋼。
知名前代,
咸自謂麗且美,
曾不如君劍良綺難忘。

冠青雲之崔嵬,
纖羅為纓,
飾以華翰,
既美且輕。
表容儀,
俯仰垂光榮。
宋之章甫,
齊之高冠,
亦自謂美,
蓋何足觀!

排金鋪,
坐玉堂。
風塵不起,
天氣清涼。
奏桓瑟,
舞趙倡。
女娥長歌,
聲協宮商。
感心動耳,
蕩氣回腸。
酌桂酒,
膾鯉魴。
與佳人期為康樂,
前奉玉卮,
為我行觴。

今日樂,
不可忘,
樂未央。
為樂常苦遲,
歲月逝,
忽若飛。
何為自苦,
使我心悲。

Phiên âm

Dương xuân vô bất trưởng thành.
Thảo mộc quần loại tuỳ đại phong khởi,
Linh lạc nhược hà phiên phiên,
Trung tâm độc lập nhất hà quỳnh!
Tứ thì xá ngã trì khu,
Ngã thành ẩn ước[1] dục hà vi?
Nhân sinh cư thiên địa gian,
Hốt như điểu phi thê khô chi.
Ngã kim ẩn ước hà vị?

Thích quân[2] thân thể sở phục,
Hà bất tư quân khẩu phúc sở thường?
Đông bị điêu hồn ôn noãn,
Hạ đương phục ỷ la khinh lương.
Hạnh lực tự khổ, ngã tương dục hà vi?
Bất cập quân thiếu tráng chi thì,
Thừa kiên xa sách bả mã lương?
Thượng hữu thương lãng chi thiên,
Kim ngã nan đắc cửu lai thị;
Hạ hữu nhu nhu chi địa,
Kim ngã nan đắc vĩnh lai lý.
Hà bất tư ý ngao du,
Tòng quân sở hỉ?

Đới ngã bảo kiếm,
Kim nhĩ[3] hà vị tự đê ngang?
Bi lệ bình tráng quan,
Bạch như tích tuyết, lợi thu sương.
Bác tê tiêu thủ,
Ngọc trác trung ương.
Đế vương sở phục,
Tích trừ hung ánh.
Ngự tả hữu,
Nại hà trí phúc tường.
Ngô chi Tích Lư[4],
Việt chi Bộ Quang[5],
Sở chi Long Tuyền[6],
Hàn hữu Mặc Dương[7],
Miêu Sơn[8] chi đĩnh,
Dương Đầu[9] chi cương.
Tri danh tiền đại,
Hàm tự vị lệ thả mỹ,
Tằng bất như quân kiếm lương ỷ nan vong.

Quan thanh vân chi thôi ngôi,
Tiêm la vi anh,
Sức dĩ hoa hàn,
Ký mỹ thả khinh.
Biểu dung nghi,
Phủ ngưỡng thuỳ quang vinh.
Tống chi Chương Phủ[10],
Tề chi Cao Quan[11],
Diệc tự vị mỹ,
Cái hà túc quan!

Bài kim phố[12],
Toạ ngọc đường.
Phong trần bất khởi,
Thiên khí thanh lương.
Tấu Hoàn sắt[13],
Vũ Triệu xướng[14].
Nữ nga trường ca,
Thanh hiệp cung thương.
Cảm tâm động nhĩ,
Đãng khí hồi trường.
Chước quế tửu,
Khoái lý phường.
Dữ giai nhân kỳ vi khang lạc,
Tiền phụng ngọc chi,
Vi ngã hành trường.

Kim nhật lạc,
Bất khả vong,
Lạc vị ương.
Vi lạc thường khổ trì,
Tuế nguyệt thệ,
Hốt nhược phi.
Hà vị tự khổ,
Sử ngã tâm bi.

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Xuân về vạn vật sinh sôi.
Thu sang cây cỏ muôn loài xác xơ.
Lá theo gió rụng như mưa,
Chỉ thân ở giữa đứng trơ mình.
Bốn mùa rong ruổi theo nhau,
Còn ta quy ẩn để làm chi?
Thân sinh ra giữa đất trời kia,
Như chim rừng trú tìm về cây khô.
Ta nay ẩn dật bởi vì sao?

Áo vừa sao chàng không mặc,
Thức ngon nhắm quý lại bỏ hoài?
Áo lông chồn mùa đông ấm áp,
Hè về áo lụa khoác lên những ngày.
Tu mình khổ hạnh bởi vì sao?
Không theo tráng trí thời trẻ trai,
Quất roi đánh ngựa ruổi dài.
Trên có trời xanh trải,
Khó thể hoài nhìn ngắm;
Dưới có đất đổi thay,
Khó thể đi được khắp.
Sao không tuỳ ý ngao du,
Truy cầu hoan lạc?

Đeo thanh trường kiếm,
Nay buông thõng bởi vì sao?
Ôi mỹ lệ hào hoa,
Trắng như tuyết đọng, sắc tựa sương thu.
Sừng tê giác gắn đầu,
Ngọc mài đính giữa chuôi.
Đế vương mà dùng,
Hiểm hoạ tiêu trừ.
Sai tả hữu,
Khiến đất nước vui hoà.
Ngô có Tích Lư,
Việt có Bộ Quang,
Sở có Long Tuyền,
Hàn có Mặc Dương,
Đồng ở Miêu Sơn,
Sắt ở Dương Đầu.
Lưu tiếng từ xưa,
Mỹ lệ nổi danh,
Cũng không bằng kiếm chàng đeo.

Đội mũ cao ngất mây xanh,
Dải lụa thắt dây,
Hai bên lông vũ cài,
Nhẹ nhàng tráng lệ.
Tỏ dung nghi,
Cúi ngẩng rạng hào hoa.
Tống có Chương Phủ,
Tề có Cao Quan,
Nổi danh là đẹp,
Nào còn đáng xem!

Đẩy cửa vàng,
Ngồi điện ngọc.
Gió bụi không vương,
Khí trời trong mát.
Tề tấu sắt,
Triệu múa ca.
Người đẹp vui hoà,
Uyển chuyển cung thương.
Người nghe lay động,
Rung cảm du dương.
Gỏi cá chép,
Rượu quế nâng.
Với giai nhân cùng vui vẻ,
Chén ngọc rót đầy,
Trước mặt phụng dâng.

Hôm nay vui,
Chẳng thể quên,
Vui chửa dứt.
Vui vẻ thường muốn lâu,
Tháng ngày qua,
Chóng như bay.
Vì sao tự khổ,
Khiến lòng bi ai.
Đại tường thượng hao hành là nhạc phủ cựu đề, thuộc Tương hoạ ca từ, nhưng lời cũ đã thất truyền. Bài này đại ý khuyên ẩn sĩ nên ra làm quan. Thi pháp bài này phô trần so sánh, cú pháp dài ngắn tự do, có ảnh hưởng tới thơ Bão Chiếu 鮑照 và Lý Bạch 李白 về sau.

[1] Tức ẩn cư. Ước là tiết kiệm, ý nói tự hạn chế trong sinh hoạt.
[2] Chỉ người ẩn cư.
[3] Chỉ thanh kiếm.
[4] Thanh kiếm nổi tiếng do Âu Dã Tử 歐冶子 cuối đời Xuân Thu đúc ra cho vua nước Ngô khi đó là Hạp Lư 闔閭.
[5] Thanh kiếm do vua nước Việt thời Xuân Thu là Câu Tiễn 勾踐 đeo.
[6] Thanh kiếm do Âu Dã Tử và Can Tương 干將 làm ra cho vua nước Sở, vốn tên là Long Uyên 龍淵, nhưng từ đời Đường do tránh tên Đường Cao Tổ là Lý Uyên 李淵 nên đổi gọi là Long Tuyền.
[7] Vốn là địa danh nước Hàn đời Xuân Thu, do nơi này làm ra nhiều kiếm nên sau dùng làm tên kiếm.
[8] Tên núi thuộc nước Sở.
[9] Tên núi thuộc huyện Hồ Quan.
[10] Tên mũ đội ở nước Tống.
[11] Hay Cao Sơn quan 高山冠, tên mũ đội ở nước Tề.
[12] Vòng bằng đồng làm tay nắm cửa, ở đây dùng chỉ cửa lớn.
[13] Đàn sắt nước Tề. Người nước Tề giỏi dùng đàn sắt.
[14] Ca nữ nước Triệu. Kinh đô Hàm Đan nước Triệu nổi tiếng có nhiều ca nữ giỏi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tào Phi » Đại tường thượng hao hành