24/04/2024 15:04Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phụng tặng Tiên Vu kinh triệu nhị thập vận
奉贈鮮于京兆二十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/03/2015 19:00

 

Nguyên tác

王國稱多士,
賢良復幾人。
異才應間世,
爽氣必殊倫。
始見張京兆,
宜居漢近臣。
驊騮開道路,
雕鶚離風塵。
侯伯知何等,
文章實致身。
奮飛超等級,
容易失沈淪。
脫略磻溪釣,
操持郢匠斤。
雲霄今已逼,
臺袞更誰親。
鳳穴雛皆好,
龍門客又新。
義聲紛感激,
敗績自逡巡。
途永欲何向,
天高難重陳。
學詩猶孺子,
鄉賦念嘉賓。
不得同晁錯,
籲嗟後郤詵。
計疏疑翰墨,
時過憶松筠。
獻納紆皇眷,
中間謁紫宸。
且隨諸彥集,
方覬薄才伸。
破膽遭前政,
陰謀獨秉鈞。
微生沾忌刻,
萬事益酸辛。
交合丹青地,
恩傾雨露辰。
有儒愁餓死,
早晚報平津。

Phiên âm

Vương quốc xưng đa sĩ,
Hiền lương phục kỷ nhân.
Dị tài ưng gián thế,
Sảng khí tất thù luân.
Thuỷ kiến Trương kinh triệu[1],
Nghi cư Hán cận thần.
Hoa lưu khai đạo lộ,
Điêu ngạc ly phong trần.
Hầu bá tri hà đẳng,
Văn chương thực trí thân.
Phấn phi siêu đẳng cấp,
Dung dị thất trầm luân.
Thoát lược Bàn Khê[2] điếu,
Thao trì Dĩnh tượng cân.
Vân tiêu kim dĩ bức,
Đài cổn cánh thuỳ thân.
Phụng huyệt[3] sồ giai hảo,
Long môn khách hựu tân.
Nghĩa thanh phân cảm kích,
Bại tích tự thuân tuần.
Đồ vĩnh dục hà hướng,
Thiên cao nan trùng trần.
Học thi do nhụ tử,
Hương phú[4] niệm gia tân.
Bất đắc đồng triều thố,
Dụ ta hậu khước sân.
Kế sơ nghi hàn mặc,
Thì qua ức tùng quân.
Hiến nạp[5] vu hoàng quyến,
Trung gian yết Tử Thần.
Thả tuỳ chư ngạn tập,
Phương ký bạc tài thân.
Phá đảm tao tiền chính[6],
Âm mưu độc bỉnh quân.
Vi sinh triêm kỵ khắc,
Vạn sự ích toan tân.
Giao hợp đan thanh địa,
Ân khuynh vũ lộ thần.
Hữu nho sầu ngạ tử,
Tảo vãn báo bình tân[7].

Dịch nghĩa

Nước của nhà vua nhận là có nhiều kẻ ăn học,
Hiền và trong sạch thì có độ bao nhiêu?
Tài lạ thường muốn nổi vượt với đời,
Tính thẳng thắn tức là hạng khác người.
Khởi đầu thấy có Trương kinh triệu,
Xứng đáng với chức vụ quan lớn đời Hán.
Như con ngựa nòi mở con đường,
Như chim cắt, chim ó bám đầy bụi mù.
Trong tước hầu, bá, biết ông thuộc vào loại nào,
Nhưng về văn chương thực đã đạt tới cùng cực.
Bay vút trên không thuộc loại cao cấp,
Nhẹ nhàng không bị chìm nghỉm.
Thảnh thơi câu nơi sông Bàn Khê,
Vung múa cái rìu của người thợ khéo vùng Dĩnh.
Địa vị cao vời nay nay đã bị lấn áp,
Trong đám người giữ chức vị cao ai là kẻ thân thiết.
Nơi ổ phượng, chim non đều tốt đẹp,
Chốn cửa rồng các khách đều mới.
Lời ngợi ca về đức hạnh vang lên cảm kích,
Những điều thất bại tự nó tan biến đi.
Con đường dài muốn đi hướng nào,
Trời cao khó mà lại trình bày.
Học thơ từ thuở nhỏ,
Các người được tuyển ở địa phương nhớ đến những vị khách quý.
Không cùng triều để mà trao đổi,
Lời than vãn được nói ra ở kẽ hở phía sau.
Sớ dâng nghi ngờ nơi giấy mực,
Thời gian đã qua nhớ đến thông với trúc.
Hộp thư thắc mắc làm lòng vua thêm trăn trở,
Là người trung gian vào tâu vua về sự việc ở điện Tử Thần.
Bèn theo chân các bậc đàn anh,
Để học hỏi mong được tinh tiến thêm cái tài vốn thô thiển của mình.
Không được cùng triều để trao đổi, hoảng hốt trốn lủi vì kẻ nắm quyền thời trước,
Đã có ý mờ ám để một mình nắm quyền.
Cuộc sống nhỏ bé thấm đầy sự ghét ghen, đố kị,
Khiến cả vạn cái tăng thêm nỗi đau khổ.
Giao thiệp với bè bạn rất hợp nơi hội hoạ,
Ơn huệ nhận được còn át cả mưa ban sáng.
Có tên học trò buồn lo chết đói,
Sớm muộn xin báo cùng quan lớn.

Bản dịch của Phạm Doanh

Trong cả nước vốn nhiều kẻ sĩ,
Về hiền lương kể dễ mấy ai?
Tài lạ thường hay cách đời,
Khẳng khái lại khiến thành người tính ương.
Thuở trước, có ông Trương, đô trưởng,
Vào đời Hán thật xứng chức cao.
Ngựa nòi mở lối phá rào,
Lại như điêu, ngạc xông vào bụi tung.
Xếp hạng nào trong vòng hầu, bá,
Về văn chương thực đã thành công.
Bay cao ai kẻ sánh cùng,
Chẳng bị chìm đắm, ung dung tinh thần.
Tại Bàn Khê buông cần thoảng thoát,
Rìu thợ Dĩnh đẽo gọt ngon tay.
Trời cao ngăn cách từ nay,
Ở nơi đài, viện, giãi bày cùng ai.
Tại ổ phượng, đẹp tươi chim nhỏ,
Chốn cửa rồng, khách cứ mới luôn.
Tiếng khen nghĩa khí vang dồn,
Những cái thất bại mờ dần đi thôi.
Đường mông mênh, hướng nào đi tới,
Trời cao xa khó lại than vì.
Học thơ từ thuở thiếu nhi,
Khách quý được gặp vào kỳ thi hương.
Vì khác triều nên không trao đổi,
Than thở chỉ biết nói khe sau.
Sớ dâng mực chẳng đậm mầu,
Nhớ thông với trúc thời nào đẩy đưa.
Thùng thắc mắc, lòng vua trăn trở,
Điện Tử Thần ở giữa tâu trình.
Bèn theo các bậc lừng danh,
Hầu mong tài mọn trưởng thành thêm lên.
Sợ mất mật chính quyền thuở trước,
Vì bọn gian mưu chước độc chuyên.
Đời hèn nhuốm lắm ghét ghen,
Khiến cho mọi sự càng thêm đau buồn.
Chốn hội hoạ làm khuôn họp bạn,
Sương ban mai sánh thấm ơn cho.
Lo chết đói, có lão nho,
Sớm muộn xin báo quan to tỏ tường.
(Năm 752)

Lời dẫn: “Tiên Vu Trọng Thông, Thiên Bảo mạt vi kinh triệu doãn” 鮮于仲通,天寶末為京兆尹 (Tiên Vu Trọng Thông, cuối năm Thiên Bảo (755) giữ chức đô trưởng).

[1] Trương Sưởng 張敞, đô trưởng đời Hán.
[2] Sông còn có tên Hoàng Hà 璜河, thuộc thành phố Bảo Kê, Thiểm Tây. Tương truyền Lã Vọng ngồi câu ở đây mà gặp Chu Văn Vương.
[3] Nơi sinh hoạt văn chương tấp nập. Dữu Tín 庾信 trong bài Tạ Đằng Vương tập tự khải 謝滕王集序啟 có câu “Phụng huyệt ca thanh, Oanh lâm vũ khúc”鳳穴歌聲,鸞林舞曲.
[4] Tiến cử từ địa phương, về thi cử thời xưa, nói chung là cống sĩ.
[5] Tên gọi khác của “quỹ sứ” 匦使, được lập ra vào thời Đường, là quan chủ trì Quỹ viện 匦院 hay Quỹ sứ viện 匦使院, là cơ quan quản lý các văn thư tâu trình của thần dân, do Vũ Hậu 武后 đề ra vào năm đầu Thuỳ Củng (685), đặt dưới quyền Trung thư tỉnh, cử viên chức mỗi cấp một người. Đặt ở trước cửa công sở một hộp vuông, bốn mặt sơn bốn mầu khác nhau: xanh, đỏ, trắng, đen, mỗi ngày sáng đem ra, chiều cất đi. Bất cứ người dân nào có ý kiến muốn nêu, minh oan chống án, tu chính sửa sai, đề nghị giải quyết vụ kiện, đều được phân loại rồi bỏ vào hộp. Sở dĩ có danh hiệu quỹ sứ vì vào đời Vũ Hậu 武后, người bỏ vào thùng mà không có thư kể sự việc, hay lại dùng lời lẽ bỗ bã đùa nghịch, nên mới đặt vị quan duyệt các thư, lời tấu. Đời Minh Hoàng vì nghe âm “quỹ” hao hao như “quỷ” nên “quỹ sứ” được đổi thành “hiến nạp sứ”. Năm đầu Càn Nguyên (758) lấy lại tên cũ.
[6] Chỉ Lý Lâm Phủ 李林甫.
[7] Tên đất xưa vào thời Hán. Vũ Đế phong cho thừa tướng Công Tôn Hoằng 公孫弘 làm Bình Tân hầu. Sau dùng chỉ các vị quan cao.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Phụng tặng Tiên Vu kinh triệu nhị thập vận