19/05/2024 11:01Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Dũng Kim đình thị đồng du chư quân
湧金亭示同遊諸君

Tác giả: Nguyên Hiếu Vấn - 元好問

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/11/2018 13:21

 

Nguyên tác

太行元氣老不死,
上與左界分山河。
有如巨鱉昂頭入西海,
突兀已過余陂陀。
我從汾晉來,
山之面目腹背皆經過。
濟源盤谷非不佳,
煙景獨覺蘇門多。
涌金亭下百泉水,
海眼萬古留山阿。
觱沸泺水源,
淵淪晉溪波。
雲雷涌鬼物,
窟宅深蛟鼉。
水妃簸弄明月璣,
地藏發泄天不訶。
平湖油油碧于酒,
雲錦十里翻風荷。
我來适與風雨會,
世界三日漫兜羅。
山行不得山,
北望空長哦。
今朝一掃眾峰出,
千鬟萬髻高峨峨。
空青斷石壁,
微茫散煙螺。
山陽十月未搖落,
翠蕤雲旓相蕩摩。
雲煙故為出濃淡,
魚鳥似欲留婆娑。
石間仙人跡,
石爛跡不磨。
仙人去不返,
六龍忽蹉跎。
江山如此不一醉,
拊掌笑煞孫公和。
長安城頭烏尾訛,
并州少年夜枕戈。
舉杯為問謝安石,
蒼生今亦如卿何?
元子樂矣君其歌。

Phiên âm

Thái Hàng[1] nguyên khí lão bất tử,
Thượng dữ tả giới[2] phân sơn hà.
Hữu như cự miết ngang đầu nhập tây hải,
Đột ngột dĩ quá dư pha đà.
Ngã tòng Phần Tấn[3] lai,
Sơn chi diện mục phúc bối giai kinh qua.
Tế Nguyên[4], Bàn Cốc[5] phi bất giai,
Yên cảnh độc giác Tô Môn đa.
Dũng Kim đình hạ Bách Tuyền[6] thuỷ,
Hải nhãn[7] vạn cổ lưu sơn a.
Tất phất Lạc thuỷ[8] nguyên,
Uyên luân Tấn khê[9] ba.
Vân lôi dũng quỷ vật,
Quật trạch thâm giao đà.
Thuỷ phi[10] bá lộng minh nguyệt ky,
Địa tàng phát tiết thiên bất ha.
Bình Hồ[11] du du bích vu tửu,
Vân cẩm thập lý phiên phong hà.
Ngã lai thích dự phong vũ hội,
Thế giới tam nhật man đâu la[12].
Sơn hành bất đắc sơn,
Bắc vọng không trường nga.
Kim triêu nhất tảo chúng phong xuất,
Thiên hoàn vạn kế cao nga nga.
Không thanh đoạn thạch bích,
Vi mang tán yên loa.
Sơn dương[13] thập nguyệt vị dao lạc,
Thuý nhuy vân sao tương đãng ma.
Vân yên cố vi xuất nùng đạm,
Ngư điểu tự dục lưu bà sa[14].
Thạch gian tiên nhân tích,
Thạch lạn tích bất ma.
Tiên nhân khứ bất phản,
Lục long[15] hốt sa đà.
Giang sơn như thử bất nhất tuý,
Phủ chưởng tiếu sát Tôn Công Hoà[16].
Trường An thành đầu ô vĩ ngoa[17],
Tính Châu thiếu niên[18] dạ chẩm qua[19].
Cử bôi vị vấn Tạ An Thạch[20],
Thương sinh kim diệc như khanh hà?
Nguyên tử[21] lạc hỹ quân kỳ ca.

Dịch nghĩa

Nguyên khí ở núi Thái Hàng còn mãi mãi
Trời chia sông núi cho hạ giới
Như có cá ngao lớn đội từ phía tây ra biển
Hình thế nhấp nhô quá nhiều
Ta từ Phần Tấn đến
Mặt mũi bụng lưng của núi chỗ nào cũng đi qua
Tế Nguyên Bàn Cốc không phải không đẹp
Riêng cảnh mây khói thấy ở Tô Môn nhiều
Dòng Bách tuyền bên dưới Dũng Kim đình
Mắt biển muôn thuở để ở nơi núi
Nguồn Lạc thuỷ chảy ào ào
Tấn khê nước xoáy tròn, sóng dồi
Mây, sấm tuôn ra loài vật quái lạ
Nhà huyệt sâu thẳm nơi của thuồng luồng cá sấu
Thuỷ phi chơi ngọc dạ minh châu
Báu vật của đất, trời không trách mắng
Mặt hồ bóng loáng còn xanh hơn rượu
Mười dặm mây gấm gió lật lá sen
Ta đến đúng vào lúc mưa gió
Trời ba ngày liền, mây trắng giăng giăng
Đi đường núi, đi không nổi
Nhìn về phương bắc xa làm sao
Sáng nay quét sạch mây, các đỉnh núi hiện ra
Nghìn vòng vạn búi tóc hiện ra
Khoảng biếc xanh cắt ngang vách đá
Những con ốc khói hiện ra mờ ảo
Nam núi tháng mười lá vẫn chưa rụng
Mầu lá xanh và mây đan xen nhau
Mây khói từ trước đến nay vẫn tô nên đậm nhạt
Chim cá như muốn la cà giữ lại
Vết người tiên trên đá
Dù đá nát dấu vẫn còn
Người tiên đi không trở lại
Cũng như ngày tháng cứ trôi đi
Non sông như thế này sao lại không say
Vỗ tay cười như Tôn Công Hoà
Bên trên thành Trường An, tiếng quạ sao buồn thảm
Trai tráng Tính Châu đêm ôm giáo ngủ
Cất chén hỏi Tạ An Thạch
Cứ như khanh, còn dân nay ra sao?
Nguyên này vui rồi, bác hãy hát lên

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Núi Thái Hàng mãi còn nguyên khí
Chia với trời sông núi thấp cao
Đội non ra biển cự ngao
Thế hình trời vực nhấp nhô trập trùng
Từ Phần, Tấn hai sông ta đến
Núi trước sau chân hẳn đều qua
Tế Nguyên Bàn Cốc đâu thua
Riêng nhiều thắng cảnh vẫn là Tô Môn
Dũng Kim đình Bách Tuyền vòng uốn
Núi còn đây mắt biển muôn thu
Ào ào dòng Lạc tuôn về
Cuộn tròn xoáy nước Tấn Khê sóng cồn
Sấm vang dậy mây vần quái vật
Nơi giao đà hang huyệt thẳm sâu
Thuỷ Phi chơi dạ minh châu
Của báu lòng đất trời đâu quở lời
Trong hơn rượu gương soi hồ mượt
Mười dặm sen gió lật gấm mây
Gió mưa ta gặp dịp này
Ba ngày trời đất giăng dầy mây mưa
Đi đường núi, núi qua không được
Bắc nhìn lên dằng dặc đường xa
Sáng nay quét lộ núi ra
Nghìn vòng vạn bím nguy nga tóc nàng
Khoảng không xanh cắt ngang vách đá
Khói ảo mờ cuộn toả ốc tròn
Tháng mười nam núi xanh rờn
Mầu tươi cây lá đan xen mây ngàn
Đậm nhạt vẫn tô nền mây khói
Chim cá như chẳng vội xa liền
Còn in trên đá dấu tiên
Dù cho đá nát dấu in không mờ
Người tiên đi không chờ quay lại
Như thời gian qua mãi về không
Say đi trước cảnh non sông
Vỗ tay tựa gã Tôn Công Hoà cười
Trường An truyền tin đuôi quạ gở
Đêm Tính Châu tuổi trẻ gối mâu
Tạ An, nâng chén hỏi câu
Muôn dân như thế lẽ nào hỡi khanh
Nguyên Tử vui bác hãy ca thanh
Đình Dũng Kim nay ở trên núi Thạch Môn, cũng gọi là núi Tô Môn, phía tây bắc huyện Huy, Nam Hà. Trên đó có chữ Tô Thức đề: “Tô Môn sau Dũng Kim đình”. Tên đình có ý là nước từ đất tuôn ra, mặt trời chiếu vào vàng óng.

[1] Ở giữa nơi tiếp giáp các châu Tấn, Ký, Dự. Thế núi cao vút.
[2] Chỉ giới hạn của trời. Bạch hổ thông ghi: “Thiên tả toàn, địa hữu chu” (Trời vòng về bên trái, đất vòng về bên phải).
[3] Tên hai con sông, đây chỉ chung đất Tấn.
[4] Nay là huyện Tế Nguyên, tỉnh Hà Nam.
[5] Tên đất ở phía nam núi Thái Hàng.
[6] Tên suối ở núi Thạch Môn, cũng gọi là Bách Môn tuyền.
[7] Tức tuyền nhãn. Người xưa cho là nước suối chảy ngầm dưới đất, cuối cùng cũng về biển lớn, nên gọi là hải nhãn.
[8] Tên sông, nguồn bắt đầu từ phía tây nam thành phố Tế Nam, Sơn Đông.
[9] Nay ở thành phố Thái Nguyên, Sơn Tây, và là khe nước bắt nguồn từ đất Tấn.
[10] Nữ thần nước.
[11] Trước Dũng Kim đình có nước suối tụ lại thành hồ.
[12] Tức đâu la miên (bông đâu la). Kinh Lăng Nghiêm chú: “đâu la thụ thượng xuất miên” (trên cây đâu la sinh ra bông), sau này lấy đâu la ví như bông hoặc tuyết. Đây chỉ mây mù phủ quanh.
[13] Mặt phía nam núi.
[14] Bước vũ đạo quay tròn, ở đây chỉ du khách quẩn quanh trong núi, vui quên về.
[15] Hy Hoà trong thần thoại dùng sáu con rồng kéo xe, chở mặt trời đi. Đây dùng sáu rồng để chỉ thay thời gian.
[16] Tức Tôn Đăng người Nguỵ thời Tam Quốc từng ẩn cử ở núi Tô Môn.
[17] Chữ từ đồng dao buổi đầu Hoàn Đế đời Hậu Hán. Thơ Nhật mộ của Đỗ Phủ có câu: “Nhật lạc phong diệc khởi, Thành đầu ô vĩ ngoa” (Chiều tà gió cũng nổi, Quạ mỉa mai bên thành) để ví như thiên hạ không thái bình.
[18] Chỉ hào kiệt Tính Châu.
[19] Chỉ chiến sự đang hăng.
[20] Người đời Đông Tấn, tên chữ là Tạ An Thạch, ẩn cư ở Đông Sơn, không ra làm quan. Thời bấy giờ có người nói “An Thạch bất khẳng xuất, tương như thương sinh hà?” (An Thạch không chịu ra, rồi muôn dân thế nào?) Sau Tạ An Thạch ra làm tể tướng. Khi Nguyên Hiếu Vấn cùng các bạn đi chơi, chính là lúc loạn động cuối Kim, dân tình khổ sở. Ông hy vọng sớm xuất hiện một anh chúa để cứu dân trong nước lửa.
[21] Tác giả tự xưng. Câu này lấy ý của Nguyên Kiệt đời Đường: “Nguyên Tử lạc hỹ, Ngã tỵ ngã mục, Ngã khẩu ngã nhĩ, Ca dĩ hỹ phù?” (Vui thay Nguyên Tử, Mũi ta mắt ta, miệng ta tai ta, Ca đã xong chưa?)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyên Hiếu Vấn » Dũng Kim đình thị đồng du chư quân