Trang trong tổng số 45 trang (441 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [41] [42] [43] [44] [45] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

DNH

TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN TRONG THƠ ĐINH NHO HOÀN

Các nhà ngoại giao thời phong kiến thường là những học giả uyên thâm, hay chữ, hiểu biết rộng. Chắc chắn họ đã sáng tác nhiều thơ trên đường đi sứ. Chúng ta được biết đến những bài thơ Đường luật và cổ phong trong tập "Bắc hành tạp lục" do Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 1820) sáng tác năm 1813 (Quý Dậu), khi ông dẫn đầu phái đoàn sang Trung Quốc (1813 - 1814). Đó là một trong những trường hợp rất hiếm mà các nhà ngoại giao ngày xưa còn để lại. Do nhiều lí do khác nhau, ngày nay chúng ta được thưởng thức quá ít những tác phẩm nguyên vẹn như vậy của các sứ giả trước đây. "Mặc Ông sứ tập" của Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn (1671 - 1715) là một trong những tập thơ hiếm hoi còn lưu lại được.
Một điều ngẫu nhiên là, năm 2015 kỉ niệm lần thứ 250 ngày sinh của Nguyễn Du và 300 năm ngày mất của Đinh Nho Hoàn.
 Những bài đầu tiên trong "Mặc Ông sứ tập" (nay được xuất bản với nhan đề "Mặc Trai sứ tâp") của Đinh Nho Hoàn, cũng như thơ Nguyễn Du trong "Bắc hành tạp lục" đều sáng tác lúc sứ bộ rời Thăng Long lên đường và kết thúc bởi những bài viết khi đang còn trên đất Trung Hoa, nhưng khác nhau là Nguyễn Du vẫn về đến quê nhà, còn Đinh Nho Hoàn đã mất nơi đất khách.
Phần lớn thơ văn của các sứ giả đều ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường, cũng như về nhân tình thế thái, mà phần lớn được sáng tác khi lưu du bằng đường thủy trên đất Trung Hoa. Do điều kiện lịch sử và hoàn cảnh khác nhau, nên tư duy và giọng văn trong "Mặc Ông sứ tập" khác xa "Bắc hành tạp lục". Nguyễn Du là một bậc tài hoa hiếm thấy, thơ văn xuất chúng, có những tác phẩm mang tư tưởng nhân văn sâu sắc, nghệ thuật siêu việt, được người đời thán phục, thế giới ca ngợi. Sống trong hoàn cảnh đất nước loạn ly, lòng người tráo trở, xã hội biến loạn khôn lường, bản thân gặp nhiều uẩn khúc, mâu thuẫn dày xé trong chính mình, với ngọn bút sắc sảo và tâm hồn đầy cảm xúc, nhạy bén, giọng thơ của Nguyễn Du trong "Bắc hành tạp lục" u trầm, bế tắc, lo nghĩ sự đời, nhiều lần nhắc đến mái tóc bạc, đưa ra những tiếng thở dài thương cảm cho cuộc đời gian truân, như thân phận của nàng Kiều tài sắc vậy.
Cũng với tâm hồn nghệ sĩ, thơ Mặc Trai Đinh Nho Hoàn mang đậm tính nhân văn, thể hiện ở tình người, tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và đặc biệt, ông luôn nhắc đến lòng trung hiếu. Đi đến đâu ông cũng hòa mình vào thiên nhiên. Trong thơ Đinh Nho Hoàn, núi sông, cây cỏ cũng có hồn. Mỗi nơi đi qua, ông đều để lại các bài thơ với những nét chấm phá sắc sảo tài tình, tả cảnh, tả người, bình phẩm, cảm nghĩ về danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa, nhân vật lịch sử và truyền thuyết, ghi lại nhiều cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, đàm đạo, ngâm vịnh, xướng họa với những người bạn, các vị khách, các quan chức đón tiếp dọc đường. Thơ ông triết lí sâu sắc, nhưng không khô khan, giàu hình ảnh, có nhiều câu rất sinh động. Chỉ xin dẫn ra đây một vài ví dụ, như ông đã viết hai câu thực để tả núi Quân Sơn gồm 12 ngọn giữa hồ Động Đình trong bài "Đề Quân Sơn". Dựa theo bản dịch nghĩa của nhà nghiên cứu Hán Nôm, Phó Giáo sư Ngô Đức Thọ trong cuốn "Mặc Trai Sứ Tập", xin tạm dịch thơ như sau:
Một tá non xanh đầu mĩ nữ
Ba ngàn trúc đỏ ngọc lang can.
Khi ngắm núi Quân Sơn vào sáng sớm, Mặc Trai đã viết hai câu kết trong bài "Quân Sơn hiểu vọng":
Ngọc bích long lanh, tiên nữ tắm
Nõn nà xiêm áo mới cài xong.
Hay câu kết trong bài "Quá Vu Hồ huyện, đề Vọng Phu ky", khi miêu tả hòn đá Vọng Phu ở huyện Vu Hồ sau cơn mưa, nhà thơ đã ví von thật là sinh động:
Mấy làn cỏ rạp đọng sương
Thành bao ngấn nước như hàng thư ai.
Trong bài viết này tôi xin không đi sâu vào phân tích các bài, các câu thơ mô tả một cách tài tình, mà trong thơ Mặc Trai có khá nhiều bài, nhiều câu như vậy. Tôi muốn nói đến tính nhân văn trong thơ ông, thể hiện ở lòng trung hiếu, tình yêu quê hương đất nước, nghĩ đến dân, lòng thương xót những người nghèo khó, lam lũ.  
Lòng hiếu trung, tình yêu đất nước, nỗi nhớ quê nhà canh cánh luôn được nhắc đi nhắc lại trong thơ Mặc Ông.
Bài "Quá Ô Man tư quốc cảm tác" có hai câu kết:
Trung hiếu một lòng tăng sức khỏe
Cổng thành vang nhạc, sứ về triều.
Đó cũng là nỗi khát khao, mong mỏi của Đinh Nho Hoàn trong suốt chặng đường đi.
Ngay khi mới rời bến Nhị Hà lên đường chuẩn bị sang đất khách quê người, ông đã tưởng nghĩ đến ngày trở về trong bài "Độ Nhị Hà khiển đế". Theo bản dịch nghĩa của Nguyễn Nam Long (Bút danh U Cốc Khách), tôi xin tạm dịch hai câu kết của bài thơ đó như sau:
Ngày về dương cột buồm hoa thắm
Thăm lại bến bờ, thỏa ước mong.
Thuyền sứ đã rời xa bến Nhị Hà, ông lại thoáng nhớ đến từng cây thị, cây dâu thân thuộc ở quê nhà qua câu thơ sau đây trong bài "Hồi tưởng độ Nhị Hà nhật, nhân tác":
Làng xóm thị dâu còn thấp thoáng.
Đến Lạng Sơn, lòng ông vẫn hướng về kinh đô Thăng Long:
Tha hương lòng dạ hướng Tràng An. (Trong bài "Quá Thành Đoàn").
Vâng mệnh vua đi sứ, nhưng đến cửa ải, tâm trạng nặng nề của ông được thể hiện trong bài "Quá quan thượng":
Thế thời lúc dễ lúc gian nan
Vâng mệnh mang thư chẳng dám than
Suốt cả đời người bao cực nhọc
Ngày qua cửa ải thật chiên truân.
Bài "Quá Thái Bình thành" có câu:
Trời Nam xa thẳm, chiều chim liệng.
Bài "Mộ bạc Tương Tư châu, nhân cảm đề" có những câu luận và kết với hình ảnh ví von độc đáo và tâm tư nhớ quê nhà sâu lắng:
Trong khói cây như ria mép rậm
Ngoài tầm nhạn vắng bức thư xa
Măng ngon suối ngọt quê xanh thắm
Nhớ núi Tiều Sơn, nhớ mái nhà.
Xa nhà, xa Tổ quốc, lúc nào ông cũng nghĩ đến dân, đến quê hương đất nước. Bài "Đề Bình Lạc Ấn Sơn đình" có hai câu kết:
Đâu phải lên lầu do thích thú
Mà vì chạnh nghĩ đến dân mình.
Tuy là một nhà nho phong kiến, nhưng Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn luôn thông cảm với người lao động nghèo khó, nông dân vất vả, thương người vú già lưng còng v.v... Ông cho rằng, người làm quan muốn yên dân, cai quản được dân thì phải biết lo nghĩ cho dân. Trong bài "Quá Quý huyện", ông viết:
Dưới bóng cam đường nghĩ tới dân.
Với hai câu kết trong bài "Quá Ngô Châu thành", nhà thơ tỏ ra bất bình trước cảnh bất công trong xã hội:
Bạc vàng nha phủ đầy tràn
Mồ hôi chưa ráo đồng làng xóm quê.
Trong bài "Quá Hán Dương đề Hán Khẩu phố", ông nêu lên tình trạng phân chia giàu nghèo và thương xót người nông dân một nắng hai sương:
Mấy lần cạn chén táo tiên
Nhà giàu ăn trốc ngồi trên ngất trời
Nông dân cũng một kiếp người
Nghèo nàn đói rét nào ai thương cùng.
Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn trân trọng cuộc sống thanh bạch, liêm khiết, lên án thói tham nhũng, hối lộ. Điều đó thể hiện trong bài "Quá Tương Đàm kinh Bao Da miếu đế":
Đá vạn thu cười dưới đáy sông
Tham quan chớ dại gặp Bao Công.
Cháu con đừng trách không vườn đất
Y, Phó có đâu lắm ruộng đồng.
Ông đem tấm gương của những vị đại thần nổi tiếng liêm khiết bên Trung Hoa là Y Doãn, Phó Duyệt để giáo dục các thế hệ mai sau và răn dạy những người làm quan.
Đinh Nho Hoàn là một người con có hiếu. Ba tuổi mồ côi mẹ. Ngày dỗ mẹ (17 tháng 7) ông lại đang lênh đênh trên đường, chỉ biết khóc mẹ qua bài thơ "Thất nguyệt thất thập nhật ngộ mẫu thân kị nhật cảm tác". Ông Đinh Nho Quỳ, tộc trưởng dòng họ Đinh Nho ở Hương Sơn nói, ông rất cảm động và tâm đắc khi đọc bài thơ này:
Mẹ mất lên ba thật đáng thương
Sáng nay kính nhớ, vẫn trên đường
Xa nhà vái vọng không li rượu
Bên cửa khóc tàn một nén hương
Đầu ngựa mây nhòa, quê khuất nẻo
Vạt tà lệ đẫm, cảnh thê lương
"Lục Nga" ngâm hết chừng trong mộng
Chữ hiếu cùng trung vạn dặm trường.
Ngay khi mới lên đường, chưa qua biên giới, với tình cha con, ông đã có hai bài thơ cùng nhan đề "Ức Trung dũng Thiếu phó Đặng Tôn đài hồi thi trình thượng" để trình lên Đặng Thiếu phó. Đồng thời, ông cũng viết bài "Ức nhũ mẫu kí dữ đồng niên Thái bộc tôn đài" gửi bạn đồng niên, bày tỏ tấm lòng của mình đối với người vú nuôi. Với những câu đề và kết sau đây, nhà thơ đã nhớ đến vú già:
Vú già tóc bạc tấm lưng còng
Đằng đẵng xa quê những tháng ròng
......
Nào sánh chim con nuôi mẹ được
Tử Dư, thán phục để trong lòng.
Mặc Trai nhắc đến Tử Dư, một người nổi tiếng có hiếu với mẹ, như là tấm gương sáng để noi theo.  
Trong bài thứ nhất trình Đặng Thiếu phó, ông đã viết những câu thơ:
Non cao vời vợi nghĩa cha con
Nguyên Đán, Phi Khanh tựa Đẩu, Sơn
......
Đợi lúc trở về cùng dạo bước
Ngồi hầu bên chén rượu chờ mong.
Bất kể ở đâu, lúc nào, lòng ông luôn canh cánh mong ngày bình yên trở về.
Bài "Quá Ô Man than" đã có câu:
Uy vũ đất trời còn đó cả
Sứ xin mạnh khỏe trở về nhà.
Trớ trêu thay, điều đó không đến với Mặc Trai.
Lòng hiếu thảo của Đinh Nho Hoàn luôn được gắn liền với trung quân. Câu kết bài nhớ ngày dỗ mẹ cũng nói lên điều đó:
Trung quân cha mẹ được vinh quang.
Khi thuyền sứ đỗ lại Nam Ninh, ông đã làm những bài thơ bày tỏ nỗi lòng mình, trong đó có câu:
Trộm ngẫm sinh ra trong vũ trụ
Phải làm con hiếu với tôi trung.
Ban đêm đỗ thuyền bên bến sông, nghe tiếng gà gáy, tâm tư của ông vẫn là:
"Hiếu trung phận sự mãi trong đời". (Bài "Bạc Đông tân dịch dạ văn thôn kê, tự cảm").
Ngay trong hai bài đầu tiên của "Mặc Trai Sứ tập", nhà thơ đã nhấn mạnh đến trung hiếu. Sau đây là hai bài thơ đó:
Độ Nhị Hà khiển đế
Thuyền lướt như đè lạnh cuối đông
Rời đình, tan tiệc, vượt sang sông
Hương trời lan rộng muôn trùng ngát
Lụa nước trải dài chục dặm trong
Thoát hiểm, chống chèo từng thử thách
Vượt nguy, trung hiếu giữ bền lòng
Ngày về dương cột buồm hoa thắm
Thăm lại bến bờ, thỏa ước mong.
Khi qua trạm Lã Côi, ông viết bài "Quá Lã Côi trạm", nhắc đến những buổi cùng các quan tùy tùng theo vua tuần thú, ngâm vịnh, tỏ lòng nhớ vua:
Lạnh se, đỉnh núi hắt tia trời
Lính trạm báo dừng tại Lã Côi
Cờ xí hồng tươi, ca nhạc rộn
Buồm thuyền trắng xóa, ánh trăng soi
Áo vàng sư cụ rong từng bước
Miếu cổ chim đàn hót mọi nơi
Nhớ lúc phò vua tuần khắp chốn
Lời thơ trau chuốt vịnh thiên thời.
Thuyền đến Ngô Châu vào Tết Đoan Ngọ, ông đã làm thơ giãi bày tâm tư:
Song ngũ kết cỏ linh bồ
Thành thuyền thả nổi để cho trôi dòng
Sách, gươm hùng tráng tâm hồn
Ngày ngọ năm ngọ khuyết cung vào chầu
Hôm nay thuyền đến Ngô Châu
Thương dân yêu nước quạt nào rời xa
Đất khách không cửa không nhà
Xa xôi biết dán lá bùa vào đâu?
Lòng thành nghĩa chính chí cao
Gọi gà nướng lưỡi vái chào quê hương.
Nhân ngày sinh của vua (19 tháng 5), ông viết hai bài chúc thọ, trong đó có những câu:
Trung quân trăng chiếu dặm ngàn
Nhớ vua nhớ nước muôn vàn chờ mong.
"Trung quân ái quốc", trung thành với vua là yêu nước. Cũng như bao nhà nho khác thời bấy giờ, Đinh Nho Hoàn đã thể hiện lòng yêu nước của mình như vậy, nhất là trong hoàn cảnh chu du trên đất nước người.
Các bài thơ còn lưu lại hiện nay của Đinh Nho Hoàn có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với số lượng thơ ông đã sáng tác trong suốt cuộc đời của mình. Rất may là chúng ta còn được thưởng thức một bộ hoàn chỉnh những bài thơ ông sáng tác trên đường đi sứ sang Trung Quốc mà nhà ngoại giao Đinh Nho Liêm và các cộng sự đã giới thiệu 93 bài trong cuốn "Mặc Trai sứ tập" và đó cũng là những bài thơ cuối cùng của Đinh Nho Hoàn.
Nhân kỉ niệm ba trăm năm ngày mất của Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn (1715 - 2015), chúng ta tưởng nhớ đến một vị quan thanh liêm, một nhà ngoại giao, một nhà thơ với tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

ĐIỂM QUA CUỐN "DANH HƯƠNG"
CỦA CÂU LẠC BỘ THƠ ĐƯỜNG HOÀI ĐỨC

Ngày 07/6/2015, Câu lạc bộ thơ Đường Hoài Đức đã cho ra mắt tập thơ "Danh hương" do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin phát hành.
Là tập thơ về quê hương Đan - Hoài, không những từ Hoài Đức, mà nhiều thi nhân Đan Phượng cũng tham gia. Ngoài ra, các bạn thơ của Từ Liêm, Cầu Giấy, Quốc Oai, Hà Nam và đặc biệt, nhiều thi huynh, thi hữu đến từ CLB thơ Đường Hà Đông, một thành viên của Chi hội thơ Đường luật Nguyễn Trãi, cũng góp bài cho tập thơ.
Trong tập "Danh hương", các nhà thơ cảm hứng với nhiều đề tài khác nhau, từ ca ngợi Tổ quốc anh hùng, quê hương giàu đẹp, các bậc tiền bối, anh hùng, liệt sĩ, đến cảnh đẹp thiên nhiên, con người bình dị mà chân thành.
Đương nhiên, một trong những đề tài được nói đến nhiều nhất là quê hương Hoài Đức, Đan phượng, như "Thơ xuân Đan Hoài" của Ngọc Bích (p.11), "Hoài Đức Đường thi" của Nguyễn Đăng Thú (p.35), "Hoài Đức quê ta" của Đức Cường (p. 38)... Đúng là: "Đất trời Hoài Đức rộng bao la", như tác giả Nguyễn Đức Chính đã viết trong bài "Hoài Đức danh hương" (p.50) và "Lắng đọng hồn quê cảnh hữu tình" của Trần Tuyết trong "Hương Đan Hoài" (p.281).
Với những câu thơ mộc mạc, chân tình, các tác giả đã say sưa miêu tả cảnh làng quê thanh bình, thân thuộc: "Xe lúa" của Nguyễn Như Chi (p. 31), "Hàng cau" của Trung Thị Châu (p.25), "Sáo diều" của Phan Huy Thanh (p.273), "Cảnh ao đình" của Nguyễn Hữu Hảo (p.64), "Bức tranh quê" của Nguyễn Hữu Phong (p.54) và Vũ Xuân Tình (p.193)...
Người nông dân còn lam lũ, một nắng hai sương để tạo ra hạt thóc cho xã hội, được thể hiện trong bài "Nhà nông" của Lê Văn Khảm (p.81):
"Dãi gió phơi lưng mùa cấy hái
Dầm mưa rát mặt vụ gieo trồng".
Hoài Đức là một phần của Thủ đô ngàn năm văn hiến và Hà Nội đã được nhắc đến trong "Trái tim Tổ quốc" của Việt Thành (p.275), "Thủ đô Hà Nội" (p.273) và "Bia Tiến sĩ" (p.274) của Phan Huy Thanh...
Thi nhân ưa du ngoạn, khám phá các vùng miền khác nhau. Điều đó được thể hiện trong "Nhịp sống vùng cao" của Phan Hồng Thái (p.270) và các bài khác.
Nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa được nhắc đến. Nguyễn Trãi qua bài "Sáng mãi sao Khuê" của Nguyễn Đăng Thú (p.33), "Quang Trung Hoàng đế" của Đức Cường (p.39),... Những bài thơ thương tiếc Đại tướng Võ Nguyên Giáp, "Đại tướng đi xa" của Ngô Văn Tâm (p.153), nhớ đến chiến tích lừng lẫy "Đại thắng Điên Biên" của Trung Thị Châu (p.25). Và không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, "Lời Bác dạy" (p.152).
Năm nay chúng ta kỉ niệm lần thứ 250 ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 2015). Ngô Văn Tâm đã thương cảm cho thân phận nàng Kiều "Hiếu nghĩa cứu cha chuốc lệ sầu" (p.154).
Là những người từng trải, các nhà thơ viết nhiều bài về "Lẽ sống", "Gia phong" (p.67) của Nguyễn Hữu Hảo, răn dạy con cháu "Trung hiếu" (p. 58) của Nguyễn Xuân Hải...
Các bậc cao niên nói về "Nghỉ hưu" (p.31) của Nguyễn Như Chi, "Mừng thọ tuổi 80" của Nguyễn Hữu Hảo (p.65), chăm chỉ tập "Dưỡng sinh", tạo "Phong trào thể dục đẹp quê ta" của Phạm Văn Huy (p.74)...
Nhà thơ thường nhắc đến các mùa trong năm, đặc biệt ưa thưởng thức xuân, "Bát ngát xuân" của Hoài Nguyên (p.107); "Xuân" của Nguyễn Đăng Thú (p.36) và Trung Thị Châu (p.26); "Chớm xuân" của Nguyễn Trí Hòa (p.70)...Dù bao nhiêu tuổi cũng mơ mộng với "Nàng thơ" (p.39), ưa nói đến "Thôn nữ" (p.41) của Đức Cường, vẫn "Mong thầm" (p.274) của Phan Huy Thanh.
Có những nhà thơ trữ tình như Minh Thắng (p.156), với bao câu chữ mượt mà, nữ tính, tâm hồn luôn lắng đọng trong "Bâng khuâng", "Mong ai", "Bóng xưa", "Giọt nắng sa", "Cánh buồm"...
Nhà thơ Giang Thanh (Đức Thanh), nguyên Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đan Hoài, đã đi xa, để lại nỗi tiếc thương cho thi huynh, thi hữu. Tác giả Nguyễn Đăng Thú đã viết:
"Người đi sao vội đi nhanh thế
Để nhớ để thương gấp bội phần" (Bài "Tưởng nhớ bạn thơ", p.37)
Và:
"Dâng nén nhang thơm lòng tưởng nhớ
Viếng vòng hoa thắm dạ bồi hồi
Nhàn du cánh hạc nơi tiên giới
Đưa tiễn người về lệ ứa rơi" (Bài "Phút biệt ly", p.36).
Một số tác giả đã áp dụng những kiểu chơi thơ, như nhất thủ thanh, khoán thủ, họa thơ..., tuy chưa nhiều.  
Ra mắt tập "Danh hương" là một cố gắng lớn của Câu lạc bộ thơ Đường Hoài Đức, mặc dù nhiều bài thơ còn hình thức chung chung, tính nghệ thuật chưa cao, thậm chí nhiều cặp thực và luận đối nhau chưa chuẩn.
Được biết, đây là tập "Danh hương" thứ 5 của Câu lạc bộ thơ Đường Hoài Đức. Xin chúc cho CLB sẽ cho ra mắt các tập thơ luật Đường thứ 6, 7, 8...và mãi mãi, càng ngày càng hay, càng phong phú.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

HOÀNG GIÁP ĐINH NHO HOÀN

Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn (1671-1715), tự là Tồn Phát, hiệu là Mặc Trai, là con thứ ba của Tiến sĩ Đinh Nho Công (1637-1695). (Con rể Nguyễn Trọng Thường của Đinh Nho Hoàn cũng đỗ Tiến sĩ, số phận như bố vợ, cũng đi sứ và chết trên đường đi sứ). Ba ông Công, Hoàn và Thường đã được khắc tên trên bia Tiến sĩ trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Năm 1700, Đinh Nho Hoàn thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp); sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Hàn lâm viện Hiệu lý, Hiến sát sứ trấn Sơn Tây, Đốc trấn Cao Bằng, Hữu thị lang bộ Công, Thượng bảo tự khanh, Phó Chánh sứ sang Thanh. Đặc biệt, trong thời gian làm Đốc trấn Cao Bằng (1704 - 1710), ông đã có công ổn định an ninh (sau khi tập đoàn Lê - Trịnh dẹp đuổi được nhà Mạc khỏi Cao Bằng), sửa đường, phá ghềnh đá trên sông Bằng Giang, mở luồng lạch đến tận biên giới, phát triển kinh tế, thông thương buôn bán với người Hoa..., còn làm thơ ca ngợi Cao Bằng (trong 10 bài thơ Nôm "Cao Bằng thập thủ", sáng tác theo thể luật Đường, thỉnh thoảng có câu 6 chữ), làm thơ lục bát khuyên dân chúng "tự sửa mình", "an cư lạc nghiệp", "ăn ở trung nghĩa", "kính thầy", "anh em hoà thuận", "tránh rượu chè, trộm cắp", "làm điều tốt, bỏ điều xấu"...(trong bài vè "Hoán tỉnh Châu dân từ"), được người dân tạc bia ca ngợi công đức. (Bia được dựng trước cửa nhà Hội quán, thuộc khu vực gần cuối phố Kim Đồng và phố Thầu, đối diện với đoạn từ khách sạn Phong Lan đến trường trung học cơ sở Hợp Giang, Cao Bằng ngày nay). Sau khi qua đời, ông được truy phong Tả Thị lang bộ Lễ, triều đình cho lập miếu tôn thờ và phong sắc là Đặc Đạt Đại vương.
Hiện nay, chưa sưu tập được nhiều thơ văn của Đinh Nho Hoàn.
Trước tác có giá trị nhất mà Đinh Nho Hoàn để lại là những sáng tác trên đường đi sứ. Những nghiên cứu của một số chuyên gia cho biết là trong quá trình đi sứ, Đinh Nho Hoàn cũng đã sáng tác nhiều bài thơ Nôm, nhưng đến nay chưa sưu tầm được. Sau khi Đinh Nho Hoàn mất, con rể của ông là Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thường đã sưu tập 113 bài thơ, một bài phú, ba bài văn do Đinh Nho Hoàn sáng tác năm 1715, trên đường đi sứ. Nguyễn Trọng Thường đặt tên cho cuốn sách là "Mặc Ông sứ tập”. Đinh Nho Hoàn đã mất trong thời gian đi sứ. Ngày nay, các học giả còn tranh luận là ông mất trước khi đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), hay sau khi rời Yên Kinh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ông mất đầu năm 1716, sau khi gặp vua Thanh, được Khang Hy quý trọng tài năng. (Nhưng chính thức người ta vẫn coi là ông mất năm 1715).
Sau khi Đinh Nho Hoàn mất, nhà Thanh đã không thiêu xác như thường lệ, mà cho ướp, đặt vào trong quan ngoài quách, để Sứ bộ ta chở về nước (cả đi đường bộ, đường thuỷ mất khoảng 7 - 8 tháng) và ngày 27 tháng 12 (âm lịch, khi ấy đã là 1716) năm Khang Hy thứ 55, Hoàng đế nhà Thanh đã sai Bộ Lễ soạn văn và lễ tế. Văn tế có đoạn viết (Bản dịch của Viện nghiên cứu Hán - Nôm):
“…Đi sứ đến triều đình ta để tỏ việc đại nghĩa
Vua thương người quá cố, đó là lòng nhân sâu quan tâm đến nơi xa
Ông phụng mệnh quốc vương nước ông
Từ phương xa vượt biển trèo non
Hồ Động Đình bái tạ ngắm trời
Công việc ấy vừa xong xuôi
Sao ông đã rời cõi thế
Trẫm nay vô cùng thương tiếc
Ta đặc ban cho ông lễ phúng
Để thoả lòng ở cõi U Minh
Than ôi!
Núi sông xa cách, ruổi rong nơi trạm dịch hoang vu
Tận trung mà hy sinh tính mệnh, hồn về đất cũ
Ông linh thiêng hãy còn quanh quất
Xin kính cẩn nhận lễ tế này”.
Di sản của Đinh Nho Hoàn để lại không nhiều, nhưng được đánh giá rất cao. Nhận xét về thơ Đinh Nho Hoàn, bộ sách "Tổng tập văn học Việt Nam", NXB Khoa học xã hội, năm 2000, do Bùi Duy Tân chủ biên, tập 6 (Văn học thời Trịnh - Nguyễn phân tranh), trang 315 viết: "Thơ Đinh Nho Hoàn nhuần nhị, ngọt ngào, chứa chan những tình cảm, ý vị đẹp đẽ, thể hiện nồng nàn lòng yêu quê hương đất nước và niềm tự hào dân tộc".
Chúng ta không rõ trong đời mình, Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn đã sáng tác bao nhiêu thơ, văn, nhưng ngày nay chỉ còn biết đến cuốn "Mặc Ông sứ tâp", năm bài thơ chữ Hán trong sách "Toàn Việt thi lục" của Lê Quý Đôn, một số bài thơ, ca chữ Nôm ông sáng tác khi làm quan ở Cao Bằng, như 10 bài thơ Đường vịnh các cảnh đẹp Cao Bằng ("Cao Bằng thập thủ"), 148 câu lục bát trong bài "Hoán tỉnh châu dân từ" (Lời kêu gọi dân châu thức tỉnh)...
Các bài thơ còn lưu lại hiện nay của Đinh Nho Hoàn, theo tôi nghĩ, có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với số lượng thơ ông đã sáng tác trong suốt cuộc đời mình. Rất may là chúng ta còn được thưởng thức tập "Mặc Trai sứ tâp", (Nhà xuất bản Văn học - 2009), do nhà ngoại giao Đinh Nho Liêm cùng các cộng sự giới thiệu 93 bài thơ luật Đường trích từ 117 bài trong "Mặc Ông sứ tập" và chắc chắn đó cũng là những bài thơ cuối cùng của Đinh Nho Hoàn.
Ngày 14/11/2015, tại huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), nhân kỉ niệm ba trăm năm ngày mất của Mặc Trai Đinh Nho Hoàn (1715 - 2015), Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh, Uỷ ban Nhân dân huyện Hương Sơn, cùng Viện Sử học và Ban liên lạc dòng họ Đinh Nho Việt Nam đã tổ chức Hội thảo Khoa học "Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn - Thân thế và sự nghiệp".
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Á THẬN PHU NHÂN PHAN THỊ VIÊN
Thiếu phu nhân (vợ hai) của Đinh Nho Hoàn là Phan Thị Viên. Nhiều sử, sách đã chép về bà, như "Hoàng Việt nhất thống chí" của Lê Quang Định, "Đại Việt sử ký toàn thư", tập I, Bản kỷ lục biên; "Truyền kỳ tân phả" của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm,...Các tài liệu đều ghi bà Phan Thị Viên là một thiếu nữ có đủ tố chất công, dung, ngôn, hạnh, đoan trang, lễ độ, thêu thùa khâu vá lành nghề, có tài văn thơ nổi tiếng, được vợ cả của Đinh Nho Hoàn yêu quý. Bà Viên về nhà chồng năm 16 tuổi, cùng Đinh Nho Hoàn xướng hoạ thơ văn rất tương đắc. Các bài xướng hoạ được chép lại trong tập "Quan thư hoà minh". Khi ông lên đường đi sứ, bà Viên đã cùng chồng qua sông Nhị Hà, tiễn ông đến trạm Lã Côi. Lúc chia tay, bà viết liền một lúc 10 bài thơ rồi nói: "Xin dâng ngài xem lúc đi đường cũng coi như thiếp đi theo vậy". Đáp lại, ông cởi chiếc áo đang mặc, trao cho bà.
Nghe tin ông mất, bà đã lên tận biên giới đón thi hài ông. Sau tang lễ, bà đã xé tấm áo ông tặng làm dây thắt cổ tự vẫn (cũng có tài liệu viết là sau khi mãn tang ông). Ông qua đời ở tuổi 45 tuổi, còn bà khoảng 20 (có tài liệu viết 19 tuổi, có tài liệu chép là 21). Ngày nay, mới sưu tầm được 03 trong số 10 bài thơ tiễn ông, cùng bài văn tế chồng, thư tạ bà Lê phu nhân (vợ cả của Đinh Nho Hoàn) và thư tạ mẹ của bà Viên.
Được tin bà tuẫn tiết vì chồng, triều đình đã ban sắc phong là "Á Thận phu nhân", cho lập từ đường và ban biển vàng đề hai chữ “Tiết phụ”.
Đền thờ của ông bà nay gọi là đền Gôi Mỹ (còn gọi là Gôi Vị), được lập ở Yên Ấp, quê ông, nay là xã Sơn Hoà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đã được xếp hạng Di tích Văn hoá cấp tỉnh và đang được đề nghị là Di tích Văn hoá cấp Quốc gia
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

DUYÊN TIỀN ĐỊNH
Bà Phan Thị Viên quê ở huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Cha của bà làm quan Thủ bộ, bị tù oan. Thời gian đó, Tiến sĩ Đinh Nho Công (bố của Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn) khâm mệnh nhà vua làm Giám sát Ngự sử châu Hoan (Nghệ An) đi đốc thị bản hạt, tra xét ngục tù, phát hiện ra ông Thủ bộ họ Phan bị oan, liền ra lệnh tha bổng. Về sau, ông Công được thăng chức Thiêm đô Ngự sử Đô sát viện, đã chuyển cha bà Viên ra Kinh đô, làm phụ tá cho mình.
Năm bà Viên 3 tuổi (có tài liệu viết 5 tuổi), cha bà ốm nặng. Trước khi mất. ông nắm tay con gái trăn trối việc trả ơn quan Thiêm đô Đinh Nho Công, người đã giải oan cho mình.
Mẹ bà Viên mở cửa hàng ở Thăng Long. Cô gái Phan Thị Viên lớn lên dung mạo nết na, ai cũng khen. Nhiều thân sĩ dòng dõi ở kinh thành để ý, nhưng bà mẹ không gả cho ai. Năm cô Viên 15 tuổi, tình cờ quan Tả Thị lang bộ Lễ - Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn đi dạo phố, thấy một nhà hàng sạch sẽ liền bước vào nghỉ chân. Bà chủ quán đã rất sửng sốt khi trông thấy ông, bèn hỏi lính hầu và biết ông quan họ Đinh chính là con trai ông Công, liền đem di nguyện của chồng ra nói với ông Hoàn, rồi vào nhà bảo con gái ra chào. Đinh Nho Hoàn trả lời: "Xưa nay nhân duyên gặp gỡ là có tiền định. Nay gặp được người tốt, cũng là ơn Tiên quân tôi để lại" và cưới cô Viên về làm vợ lẽ vào năm cô 16 tuổi. (Có tài liệu viết cô về nhà chồng năm 15 tuổi). Thời gian hai người chung sống tuy ngắn ngủi, nhưng vô cùng gắn bó, tâm đắc, đặc biệt là về văn chương, xướng hoạ.
Nhiều sử sách đã viết về cuộc tình "Trời định" này, như "Hoàng Việt nhất thống chí", "Đại Việt sử ký toàn thư", "Việt sử thông giám cương mục chính biên", "Địa chí văn hoá huyện Hưng Nguyên", "Hương Yên phổ tự", "Truyền kỳ tân phả".
Sách "Hoàng Việt nhất thống chí" có đoạn viết: "Người thiếp yêu của Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn dung mạo trong trắng trang nghiêm, giỏi âm luật, thông thuộc văn chương".
Tuy Đinh Nho Hoàn được đánh giá là một nhà thơ trữ tình, nhưng các bài thơ của ông còn lưu lại đến ngày nay không có bài nào viết về tình yêu đôi lứa. Có lẽ đó là cách xử sự của phần lớn các nhà nho phong kiến. Nhưng riêng việc trước khi ông lên đường đi sứ, cởi áo khoác đang mặc tặng bà, còn bà tặng ông 10 bài thơ tiễn chồng bằng chữ Hán (nay còn lại 3 bài), rồi việc bà tuẫn tiết vì chồng cũng đủ nói lên mối tình hết sức nồng thắm, không kém phần lãng mạn và thuỷ chung, son sắt của ông bà.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

ĐIỂM QUA CUỐN "THƠ ĐƯỜNG HÀ NỘI - VII".

Cứ đến hẹn lại lên, mỗi năm CLB thơ Đường Hà Nội cho ra mắt một tập thơ với những chủ đề rất phong phú, bày tỏ tâm tư, tình cảm, chính kiến của các thành viên CLB.
Năm 2015 vừa qua, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc đã phát hành tập thơ thứ 7 của CLB.
Mở đầu cuốn sách là 75 bài thơ giao lưu trình diễn của 15 chiếu thơ dự thi do CLB thơ Đường Hà Nội tổ chức tại Chùa Thầy vào tháng 8-2015. Tiếp đến là những bài thơ tâm đắc, sốt dẻo nhất của hội viên tất cả các chiếu thơ trong CLB.
Cũng như các tập thơ trước đây, cuốn "Thơ Đường Hà Nội - VII" phản ánh tương đối đầy đủ các sự kiện quan trọng của đất nước, đặc biệt 2015 là năm kỉ niệm lần thứ 125 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản VN, 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, 40 năm hoàn toàn giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhiều tác giả đã viết những vần thơ ca ngợi Bác, nguyện cố gắng học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, như "Nhớ lời Bác dạy" (của Hữu Minh Cương), "Bác Hồ" (của Văn Sĩ Nguyện), "Bác Hồ sống mãi" (Nguyễn Chí Công), "Về quê Bác" (Giang Hoàng Thung, Phạm Chính), với những câu thơ xuất phát tự đáy lòng:
"...Cháu con cả nước về bên Bác
Mắt lệ tuôn rơi quặn thắt lòng".
Sau Bác Hồ, không thể không nhắc đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, học trò xuất sắc của Người. Đại tướng đã đi xa, nhưng nhân dân, qua các nhà thơ, vẫn không nguôi nhớ đến vị tướng văn võ song toàn, nay đang yên nghỉ ở Vũng Chùa, Đảo Yến với các bài "Nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp" (của Nguyễn Văn Khoa, Trần Văn Miện), "Tướng của lòng dân" (Nguyễn Thiều), "Vĩ nhân đất Việt" (Nguyễn Thị Thược), "Rạng rỡ công huân" (Đông Sinh Nhật)...
Hồ Chủ tịch là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản VN. Nhiều tác giả đã viết những bài thơ chào mừng ngày thành lập Đảng, như "Mừng Đảng 85 xuân" (của Cấn Xuân Hoàn), "Ơn Đảng" (Cao Văn Tân), "Bừng sao sáng" (Minh Khôi), "Ngọn đuốc Đảng soi" (Nguyễn Sĩ Thuấn)...
Được sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ thiên tài, nhân dân ta đã chớp thời cơ tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều nhà thơ đã viết về đề tài này, như "Cách mạng thành công" (của Nguyễn Đình Thịnh), "Hà Nội mùa thu ấy" (Vũ Khắc Nhượng), "Ngôi sao tháng Tám" (Nguyễn Thị Hồng Thơm), "Rạng rỡ lời Người" (Nguyễn Hữu Hảo), v.v...
Thực dân Pháp không cam chịu để cho Việt Nam trở thành một nhà nước độc lập. Nhân dân ta phải tiến hành chín năm kháng chiến để đi đến một Điện Biên chấn động địa cầu, Miền Bắc được giải phóng, trở thành hậu phương lớn cho Miền Nam ruột thịt suốt hơn 20 năm "Lội suối băng ngàn theo chiến dịch, Sài Gòn xuân đến giữa ban mai". ("Hành quân giữa mùa xuân" của Mai Hoàng Khải).
Chủ đề này cũng xuất hiện trong nhiều bài khác, như "Mừng xuân đại thắng" (của Nguyễn Văn Chúc), "Tâm hồn người lính" (Nguyễn Hữu Xạ), "Nhớ bạn đồng ngũ" (Hồng Phúc), "Nhớ ơn liệt sĩ" (Nguyễn Kim Khoát)...
Một đề tài lớn được đề cập đến là biển đảo quê hương trong "Trường Sa" (của Nguyễn Đức Chỉnh), "Tiếng gọi Biển Đông" (Đỗ Xuân Tuý), "Đảo nhỏ kiên cường" (Trương Thị Thanh), "Tình người lính đảo" (Trịnh Thu Loan)...
Năm nay, chúng ta kỉ niệm 250 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hoá thế giới. Các nhà thơ của CLB chúng ta cũng không quên viết về thi nhân tài hoa này, như "Bái lạy cụ Nguyễn Du" của Trần Văn Cường; khoán thủ câu Kiều "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" của Nguyễn Thị Tự.
Ngoài Nguyễn Du, nhiều tác giả đã viết những bài ca ngợi các danh nhân văn hoá khác, các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, như "Thầy Chu Văn An" (của Lê Trung Hợp), "Huyền Trân công chúa" (Cấn Thị Đôi), "Nguyên phi Ỷ Lan" (Phan Kế Minh, Ngô Văn Tâm), "Bà Trưng" (Hoàng Quang Trọng), "Thăm đền Trưng nữ vương" (Nguyễn Đình Nụ), "Bắc bình vương" (Trần Văn Cường)...
Cùng với việc bám sát các sự kiện lớn của đất nước, ngợi ca những nhân vật kiệt xuất của dân tộc, nhiều tác giả đã bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình đối với quê hương đất nước: "Quê tôi" (của Nguyễn Văn An), "Hồn quê" (Thạch Văn Long), "Nhớ quê" (Lê Duy Trực), "Nghĩa quê hương" (Nhất Tâm). Bài "Lời ru" của Viết Lợi có những câu thơ mượt mà, tha thiết:
"... Chứa chan nghĩa mẹ vang non nước
Sâu lắng tình cha vọng đất trời
Thánh thót âm thanh hồn Tổ quốc
Ngọt ngào giai điệu tiếng à ơi".
Là thơ Đường Hà Nội, không thể thiếu những câu thơ ca ngợi thủ đô ngàn năm văn hiến trong "Đất kinh kỳ" (của Phạm Huy Thuận), "Thủ đô Hà Nội" (Nguyễn Văn Khoa), "Thủ đô giàu đẹp" (Nguyễn Văn Cường). Nhiều tác giả đã viết những bài ca ngợi cảnh đẹp Xứ Đoài: "Núi Tản sông Đà" (Nguyễn Đức Hương), "Nắng Sơn Tây" (Trần Hùng).
Tháng Tám 2015, CLB thơ Đường Hà Nội đã tổ chức giao lưu, trình diễn, thi thơ ở chùa Thầy. Nhân sự kiện này đã có hàng loạt bài viết về một địa danh nổi tiếng của Xứ Đoài: "Chùa Thầy" (Kiều Tiến Lương), "Non nước chùa Thầy" (Nguyễn Anh Tuấn), "Vịnh chùa Thầy" (Nguyễn Văn Cạnh). Khi đến "Chiêm ngưỡng chùa Thầy", "Thi nhân bút ngọc vờn thơ phú, Hoạ sĩ tay ngà vẽ khói mây" như Nguyễn Quang Kinh đã mô tả.
Năm 2015, Hội thơ Đường luật Việt Nam tổ chức Đại hội ở Bắc Ninh, nên không thiếu những bài viết về miền quê này, như "Nhớ về Kinh Bắc" (của Đặng Đình Hán), "Quan họ giao duyên" (Nguyễn Văn Tính), v. v...
Để chuẩn bị cho Đại hội thơ Đường tại Đà Nẵng vào năm nay, từ 2015 đã có những nhà thơ "đi bước trước", sáng tác về thành phố đầy tiềm năng du lịch này, như "Về Đà Nẵng" (cuả Nguyễn Thiều), "Phong cảnh Đà Nẵng" (Nguyễn Quang Kinh.
Thơ luật Đường không thể tách khỏi thú xướng hoạ, ngâm vịnh: "Vịnh quả vú sữa" (của Đào Thiện Nhân), "Vịnh cây cau" (Cao Minh Hoa), "Vịnh cây thông" (Nguyễn Hiền Ninh), "Vịnh uống trà" (Nguyễn Kim Việt). Thơ Đường thường súc tích, sâu sắc, ý tại ngôn ngoại, nhiều khi thâm thuý. Có thể nhắc đến các bài "Hoa dại" (của Đỗ Văn Long và Kiều Bích Liên), "Lời cua" (Việt Băng). Phần lớn các tác giả thơ luật Đường là những người đã từng trải, muốn truyền đạt lại kinh nghiệm sống cho các thế hệ tiếp sau, như những bài "Cao niên", "Dạy con cháu" của Dương Đắc Đông.
Tuy nhiều nhà thơ tuổi có cao, nhưng tâm hồn còn tươi trẻ, luôn "Quên tuổi già" (như Nguyễn văn Giang), tự thấy "Đã đâu già" (của Ngô Xuân Tập), vẫn "Đan mộng tuổi già" (Nguyễn Thị Phượng). Các cụ vẫn nghĩ đến "Tình yêu sét đánh" (Tưởng Văn Hoà), ưa ngắm nhìn các "Mỹ nữ" (Nguyễn Bá Vượng), những "Thiếu nữ chơi xuân" (Hồ Văn Thiện). Đến tuổi cổ lai hi rồi vẫn "Đắm say" (Nguyễn Ngọc Ánh), nhớ đến "Mối tình xưa" (Như Huề). Thơ Đường như đem lại tuổi xuân cho các cụ. Dù có viết ra hay không, thì ai cũng luôn nghĩ đến mùa xuân. Điều đó đã được thể hiện trong các bài: "Xuân" (của Trịnh Thế Sủng), "Sắc xuân" (Phạm Chính), "Cảm xuân" (Kim Ngọc Bảo), "Hội xuân" (Nguyễn Bá Bảy), v.v...
Về hình thức, nhiều tác giả đã áp dụng các kiểu chơi thơ khác nhau, như khoán thủ, khoán tâm, nhất thủ thanh, thủ vĩ liên hoàn, bát láy, bát điệp, bát vĩ đồng âm, độc vận, thuận nghịch độc, ngũ độ thanh, thơ gieo vần trắc...Có kiểu chơi thơ phá cách toàn bằng, như bài "Sông quê" của Nguyễn Chương Phú.
Đó là những cảm nhận đầu tiên của tôi khi đọc "Thơ Đường Hà Nội - VII".
Cảm nhận về một tập thơ, không thể không mong muốn cho những tập sau hay hơn, đáng được thưởng thức hơn.
Muốn có bài thơ đạt yêu cầu, được người khác ưa thưởng thức, cần đầu tư công sức, không thể dễ dãi với chính mình. Sáng tác thơ luật Đường càng không thể dễ dãi. Không nên cho rằng, cứ tập hợp đủ 8 câu 7 chữ có niêm có vần là xong. Chúng ta thấy trong tập thơ còn nhiều bài chất lượng chưa đạt yêu cầu, đặc biệt tính nghệ thuật chưa cao, hình thức, chung chung, đơn điệu, còn phạm những lỗi mà nếu chịu khó đàu tư thêm thời gian thì có thể tránh được, như mạ đề, điệp vận, phong yêu, hạc tất, trùng phức, khổ độc, điệp thanh... Khó mà tìm ra một bài thơ, một câu thơ thật hay, đáng để đời. Thậm chí, một số không ít nhà thơ dường như không để ý đến yếu tố đối ngẫu trong thơ luật Đường. Hy vọng những năm sau sẽ ra mắt các tập thơ chất lượng hơn.
Trên đây, tôi đã điểm qua cuốn "Thơ Đường Hà Nội - VII" với mục đích gợi ý để tiện cho việc thưởng thức những đứa con tinh thần của hơn 300 tác giả sinh hoạt trong CLB của chúng ta.
Cho đến nay, CLB đã cho ra mắt bảy tập thơ luật Đường. Đó là thành quả của tình yêu thơ, lòng ham say, sự cố gắng của các thành viên trong CLB. Kết quả đó cũng không thể tách rời sự chỉ đạo và hỗ trợ của Trung tâm Văn hoá thành phố Hà Nội. Chúng ta chân thành cám ơn sự giúp đỡ quý báu và rất hiệu quả đó.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

ĐÔI NÉT VỀ CUỐN "THƠ ĐƯỜNG HÀ NỘI - VIII"
Năm 2016, CLB chúng ta đã cho ra mắt tập VIII thơ Đường Hà Nội.
Có thể nói đó là những bài thơ đầy tâm huyết của các hội viên CLB thơ Đường Hà Nội, trong đó có 45 bài do 15 CLB cơ sở chọn lọc để dự thi và đã được trình diễn tại Trung tâm Văn hoá thành phố Hà Nội.
Cũng như những tập trước đây, chủ đề được đề cập đến nhiều nhất là quê hương - đất nước và tình yêu thơ luật Đường.
Quê hương, trước hết là nơi chôn nhau cắt rốn, làng xóm thân thương, là mái đình, giếng nước, được thể hiện trong các bài "Quê hương" của Trần Thị Thanh Liêm, "Nghe bài hát quê hương" của Trương Thanh Tâm, "Nước giếng làng" của Nguyễn Hiển Ninh, "Ngợi ca Thạch Xá", "Hạ Bằng quê tôi" của Phạm Thế Bền, "Hương xứ Đoài" của Phạm Văn Miết, "Buổi sớm Mai Châu" của Lưu Văn Luận.
Những bài ca ngợi cảnh đẹp, truyền thống các vùng miền khác nhau của đất nước: "Chiều hồ Tây" của Kiều Tiến Lương, "Ngắm hồ Tây" của Lỗ Thị Minh Toan, "Hà Nội văn hiến anh hùng" của Từ Văn Bái, "Chùa Thầy" của Hồ Văn Thiện, "Thăm đền bà Đế" của Nguyễn Đắc Công, "Động Hương Tích" của Nguyễn Thị Hồng Phúc, "Huế" của Phạm Thị Huệ, v.v.
Tác giả Khuất Anh Chung còn đem thơ "Thả bên núi Thầy":
"Hồn thơ níu gió tươi sông Đáy
Nét hoạ vờn mây rạng núi Thầy".
Biển đảo cũng là quê hương, là máu thịt không thể tách rời khỏi cơ thể Việt Nam, như bài "Biển đảo" của Tạ Thị Thanh Lộc, "Hướng Biển Đông" của Kiều Nhâm, "Chủ quyền biển đảo" cua Trần Thị Kim Dung, "Bảo vệ biển đảo" của Nguyễn Văn Khoa,...
Tình yêu thơ văn, đặc biệt là thơ luật Đường được thể hiện trong hàng loạt bài của hầu hết các CLB cơ sở. Thi lão Trương Mai đã từng phát biểu: "Từ khi có duyên với thơ luật Đường, tự cảm thấy cuộc sống không thể thiếu thơ Đường và càng đi sâu vào tìm hiểu thơ Đường càng không có hứng thú thưởng thức bất cứ thể loại thơ nào khác". Đương nhiên, đó là ý kiến cá nhân, nhưng là tiếng nói thể hiện tình yêu thơ luật Đường của hội viên CLB chúng ta. Điều đó được chứng minh trong nhiều bài của tập VIII. Ta hãy đọc: "Sống cùng thơ" của Nguyễn Văn Tính, "Thú văn chương" của Đỗ Hùng Cường, "Mộng văn chương" của Trịnh Bá Sướng, "Chơi thơ" của Nguyễn Thị Sim, "Vui xướng hoạ" của Trần Văn Thập, "Ngày hội thơ Đường" của Trung Thị Châu, "Vang vọng thi ca" của Nguyễn Văn Cạnh, "Giao lưu thơ Đường" của Nguyễn Văn Khoa, "Nối nhịp cầu thơ" của Hồng Loan, "Thơ có cánh" của Nguyễn Trọng Khoát, "Xao xuyến hồn thơ" của Nguyễn Thị Minh Tài, "Trăng và thơ" của Phạm Gia Giáo,...
Nhiều tác giả đã ôn lại những kỷ niệm giao lưu thơ tại Đà Nẵng, Kim Bôi. Hàng loạt bài thơ có chung đề bài "Du thơ xứ Mường". Đã có những bài thơ chuẩn bị cho Hội thơ tại Nghệ An năm 2017.
Càng yêu thơ bao nhiêu lại càng nhớ đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, những bậc thơ văn đại tài của dân tộc, và các anh hùng, liệt sĩ bấy nhiêu. Bài "Trăng thơ nhớ Bác" của Nguyễn Văn Chúc có câu:
"Trăng thơ nhớ Bác thấu nhân tình
Toả sáng tâm hồn Hồ Chí Minh...".
Nén nhang thắp lên mộ đồng đội cũng bằng thơ:
"...Kính cẩn nghiêng mình giây tưởng niệm
Tuần nhang vĩnh biệt thắp bằng thơ"
(Bài "Nén nhang thơ" của Hoàng Thế Liệu).
Nhiều bài thơ đã đề cập đến thành công của Đại hội Đảng XII, bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp.
Tóm lại, về nội dung, tập VIII "Thơ Đường Hà Nôi" cũng vô cùng phong phú như các tập trước đây.
Về hình thức - nghệ thuật đã có tiến bộ. Nhiều tác giả đã áp dụng các thú chơi thơ, như ngũ độ thanh (Nguyễn Quang Chính, Đàm Văn Quả...), thuận nhịch độc (Xuân Lâm, Đặng Văn Phú...), tung hoành trục khoán (Nguyễn Xuân Lộc), khoán thủ, khoán tâm, bát thủ đồng âm, bát vĩ đồng âm, thơ trốn vận (Nguyễn Văn Thụ), vận dụng các thú chơi đối ngẫu khác nhau, v.v... Thi lão Đàm Văn Quả cho biết, do say mê sáng tác thơ luật Đường, đặc biệt là chơi thơ "Ngũ độ thanh", nên tinh thần sảng khoái hơn, sức khoẻ dồi dào hơn, tuổi thọ nâng cao hơn, mặc dù đã trải qua đại phẫu thuật do bạo bệnh. Một vài tác giả còn chơi thơ phá cách, không áp dụng niêm, luật của thơ Đường, có thể coi đó là thơ cổ phong, hoặc thơ mới.
Vấn đề cần chú ý khi sáng tác thơ ngũ độ thanh, thuận nghịch độc, tung hoành trục khoán...nói riêng, cũng như thơ luật Đường nói chung, là không vì phải tuân thủ luật chơi mà bỏ qua ý thơ, chất thơ, tứ thơ. Một điều đáng được ghi nhận là trong tập VIII này, tuy vẫn còn những bài thơ có hai câu thực và hai câu luận không đối nhau, nhưng so với các tập trước thì đã ít hơn. Các lỗi mạ đề, phong yêu, hạc tất, khổ độc, v.v... cũng giảm bớt. Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ hơn, thì chắc chắn sẽ tránh được các lỗi này. Như lỗi nhại đề, chỉ cần sửa lại đề bài là xong.
Có một điều cần cân nhắc là nên đầu tư suy ngẫm, dù sáng tác ít bài hơn, giảm số lượng đi một chút, nhưng nâng chất lượng thơ lên, còn hơn cho ra hàng loạt bài không đạt yêu cầu với chất lượng thấp, phạm lỗi, mắc bệnh, không có tứ thơ. Có lẽ, nhiều khi chúng ta sáng tác thơ một cách ngẫu hứng, nếu chịu khó xét duyệt kỹ hơn, chắc chắn bài thơ sẽ hay hơn, chuẩn hơn.
Trên đây, tôi đã điểm qua nội dung và nghệ thuật của tập VIII "Thơ Đường Hà Nội". Hội viên CLB thơ Đường chúng ta cũng là thành viên của xã hội. Tuy phần lớn tuổi đã cao, nhưng không bao giờ và không có ai là người đứng ngoài xã hội. Thật đáng trân trọng, khi các thi huynh thi hữu, đai đa số tuổi đã cao, nhưng với những câu thơ đầy tâm huyết, đã chứng tỏ là tấm gương tốt cho các thế hệ con cháu noi theo. Nói: "Về hưu rồi đừng làm thơ chính trị nữa" là hoàn toàn sai. Văn học - nghệ thuật không thể tách rời khỏi đời sống chính trị của đất nước. Quan niệm: "Thơ phải đứng ngoài chính trị" lại càng sai trái, sai về quan điểm, sai về lập trường chính trị. Không có loại thơ văn nào "phi chính trị" cả. Với tinh thần xây dựng, thơ của chúng ta không những cần phản ánh một cách trung thực đời sống xã hội, gắn bó với thực tế, mà còn góp tiếng nói tích cực làm cho xã hội ngày càng tươi đẹp, quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh.
Nhân dịp năm mới đến, xin kính chúc các vị lãnh đạo và cán bộ, nhân viên Trung tâm Văn hoá thành phố Hà Nội dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc, thành đạt. Chúc các thi huynh, thi hữu mạnh khoẻ, tình yêu thơ luật Đường càng ngày càng cháy bỏng, làm thơ càng ngày càng hay.
Xin chân thành cám ơn!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

"LỘC ĐỜI BÊN TÔI" -
SÂU ĐẬM TÌNH NGƯỜI, CHÁY BỎNG TÌNH YÊU
Tác giả Nguyễn Duy Cang, bút danh Nguyễn Kiều Duy Cang Bằng, hội viên của Chi hội và CLB chúng ta, vừa cho ra mắt tập thơ "Lộc đời bên tôi", gồm hai phần chính với hai tiêu đề "Với bạn đời" và "Lộc đời bên tôi".
Chỉ với tiêu đề của tập thơ và bút danh của tác giả, tên hai vợ chồng lồng vào nhau, đã nói lên tất cả. "Bạn đời" của Nguyễn Duy Cang là Kiều Bằng, đương nhiên cũng là mẹ, là bà của các con cháu nhà thơ, cùng là những "lộc đời" bên tác giả.
Chủ đề nổi bật xuyên suốt cả tập thơ là tình yêu của tác giả đối với người bạn đời, với con cháu, người thân.
Mở những trang đầu của cuốn sách, ta thấy tác giả giới thiệu thơ chúc mừng năm mới Bính Thân và hai bài "Chúc tết con cháu", "Ngắm lộc nhà mà mê".
Trong phần "Lộc đời bên tôi", tác giả giới thiệu những bài giao lưu, trao đổi, xướng hoạ đầy ắp tình người với các bạn thơ.
Nội dung chính của tập thơ là "với bạn đời", người mà tác giả gửi trọn cả mối tình sâu nặng, đắm say, tha thiết, thuỷ chung, gắn bó keo sơn, từ khi "Bén men tình", "Chớm yêu", cho đến suốt cả những năm tháng chung sống bên nhau. Nay tuổi đã cao, tình yêu vẫn như buổi ban đầu, không hề phai nhạt.
Ngay từ lần gặp mặt đầu tiên, chỉ là tình cờ, bất chợt, nhưng tình yêu sét đánh đã đến:
"Xuất hiện vô tình phút thế thôi
Ngang qua trước mặt rụng rời tôi
.......
Cõi lòng xao xuyến thầm mong đợi
Thao thức mơ màng chẳng thể nguôi" ("Bất chợt").
Hay:
"...Bỗng nhiên xuất hiện lung linh thế
Cảm giác hồn mê hút mất mình"
"...Thâu đêm ánh mắt long lanh sáng
Đến rạng vẫn chong một ngọn đèn" ("Buổi đầu ấy").
Khi đã "Bên em", thì
"Luồng điện sâu xa mà phấn chấn
Phút giây lưu dấu mãi trong tim".
Thật là một mối tình đắm đuối, cuồng si, không thể đợi chờ được:
"Đằng đẵng đợi chờ nay xuất hiện
Cuồng si hoà quyện nói thay lời" ("Phút cuồng si").
Và rõ ràng là tình yêu đã đến từ hai phía. Cả hai đều cảm thấy không thể thiếu nhau, không thể tách rời nhau được, xa nhau chỉ thấy nhớ nhung, luôn cầu nguyện để cho cảnh chờ đợi trôi qua thật nhanh và những giây phút bên nhau thật là ngất ngây:
"Ánh mắt trao nhau, đón tóc thề
Nỗi niềm bừng cháy lửa đam mê
.....
Tim nghe rạo rực chen hồi hộp
Thổn thức men tình tuổi cập kê" ("Bén men tình").
"Đắm say cháy bỏng nụ hôn
Dường như ta được bế bồng trên mây" ("Bước tình đầu")
"Nhớ nhung thao thức đêm trằn trọc
Rạo rực trong lòng chẳng được yên" ("Buổi đầu ấy").
"Cảm xúc rộn ràng bắt gặp nhau
Trông mong hồi hộp đợi chờ lâu" ("Chớm yêu").
Hình như khi yêu nhau, được nếm mùi vị của tình yêu, người ta mới thực sự hiểu hết được ý nghĩa sâu sắc, đậm đà của chữ "yêu" và lại càng trân trọng chữ "yêu" thiêng liêng đó:
"Chữ yêu quý lắm ai ơi
Tiếng yêu mang lại ngọt bùi dịu êm..."
Và:
"...Tình yêu như có phép tiên
Biết yêu thu phục nhân duyên cõi trần" ("Yêu").
Tình yêu là trường tồn mãi mãi:
"...Tình yêu đích thực sống thiên niên" ("Hương sắc hoa").
Tác giả miêu tả người yêu, người bạn đời của mình là một cô gái duyên dáng, thuỳ mị, nghiêng nước, nghiêng thành, tâm hồn trong sáng với đôi mắt "sáng như ngọn đèn":
"Mắt em nhịp sống vui buồn
Mắt em kho báu tâm hồn người thương" ("Đôi mắt").
"Người con gái ấy môi hồng mọng
Cười nụ rất duyên, nghiêng nước nghiêng thành" ("Buổi đầu ấy").
"Nét thuỳ mị toát ra từ duyên dáng
Còn tâm hồn đượm trong sáng Việt Nam" ("Em tôi")
"Má lúm đồng tiền, giọng dịu êm
Ngời ngời khuôn mặt nét cười duyên" ("Xao xuyến").
Tuy yêu đắm đuối, cuồng si, nhưng nhà thơ là người biết kiềm chế, biết suy tính chuyện lâu dài, với những câu thơ đầy triết lí sâu xa:
"Về cuộc đời ai biết trước đến sau
Phải giữ mình để đi vững về sau
Được như thế mới bền lâu năm tháng" ("Em tôi").
Chỉ cần nghe tiếng "dạ", tiếng cười của người vợ mới cưới là nhà thơ đã sung sướng đến "phát điên" lên rồi:
"Em dạ, tâm hồn anh rung lên
Một niềm tin mãnh liệt cuồng điên" ("Nghe tiếng dạ")
Tình yêu dù thơ mộng đến mấy cũng phải đối mặt với thực tế mưu sinh của cuộc sống gia đình. "Về Lai Châu, tuy vẫn biết phải đi" ("Tiễn em"). Vợ chồng phải xa nhau, tương tư, "Ngày thì trống trải, ban đêm âm thầm". Thấy chiếc nón, đôi guốc, khăn mặt, bàn chải của người thương cũng "ngắm mãi thêm bồi hồi", đành "tâm sự với quạt" vậy! Nhưng tình yêu luôn sắt son, chung thuỷ, "Cho dù bão tố những ngày xa nhau".
Thời bao cấp lấy đâu ra điện thoại với internet, xa nhau chỉ có trông ngóng những lá thư. Bao tình cảm, nhớ nhung dồn vào những dòng thư:
"Mỗi nét chữ như bầu máu nóng
Dồn vào tim ấm lắm em ơi!" ("Thư em")
Và: "Bao lần anh đọc thư em
Bấy nhiêu anh nhận ấm êm về mình" ("Tôi yêu chữ B.")
Những lúc phải bươn chải trong cuộc sống, lòng tác giả lại trào lên nỗi thương vợ:
"Có ai thấu hiểu nỗi trăn trở này
Mình em xơ xác vai gầy
Đêm nằm lo gạo ban ngày lo cơm
Còn lo mọi thứ cho con
Chất chồng gánh nặng mỏi mòn mong anh" ("Trải qua bĩ cực").
Tuy: "Ngôi nhà bình dị đơn sơ
Tranh tre nứa lá bên bờ ao thôi",
Nhưng:"Ôi sao thân thiết quá trời" ,
Vì trong ngôi nhà đó đang sinh sống một gia đình ấm cúng, hạnh phúc:
"Hai con âu yếm bao nhiêu
Ríu ra ríu rít những điều líu lo" ("Trải qua bĩ cực").
Dù trong hoàn cảnh nào, hai vợ chồng cũng ra sức phấn đấu, vượt qua mọi gian nan, chung lưng đấu cật, quyết tâm vươn lên:
"Kiên trì những lúc khó khăn
Kiên tâm suy tính để lần đường ra" ("Chịu đựng").
Dưới ngòi bút của nhà thơ, người bạn đời là một phụ nữ đoan trang, đảm đang, một người mẹ tảo tần, chăm sóc chu đáo hai cô con gái rượu Kiều Vân, Kiều Lâm với tình mẫu tử bao la:
"Từ lúc lọt lòng cho đến nay
Mẹ luôn chăm bẵm chẳng ngơi tay
Hy sinh tận tuỵ vì con cái
Dốc hết cho con chắp cánh bay" ("Tình mẹ").
Khi con cái yên bề gia thất, người bạn đời của nhà thơ lại chăm lo cho các cháu:
"Cái nắng mùa hè nóng bức oi
Đi về sớm tối tựa con thoi
Hà Đông Hà Nội để thăm cháu
Tuy mệt nhưng bà cảm thấy vui" ("Thương cháu").
Đó chính là niềm hạnh phúc của ông bà:
"Râm ran ríu rít bên bà
Với ông còn nỗi thiết tha hơn nhiều
Ngắm bà ngắm cháu quý yêu
Trong lòng gợn sóng thuỷ triều ước mơ" ("Bên bà với cháu").
Lẽ đương nhiên, người bạn đời của nhà thơ luôn giành sự chăm sóc chu đáo nhất cho "người bạn đời" của mình. Những lúc ốm đau, nằm viện, bóng dáng người vợ hiền luôn là niềm an ủi lớn nhất đối với nhà thơ:
"Hôm nay em đến với anh
Nào cam nào chuối để dành thăm nuôi
Mang theo đẫy gánh ngọt bùi
Từ trong chăm sóc dậy mùi yêu thương" ("Mong khỏi bệnh").
Về tình cảm của nhà thơ đối với người bạn đời, tôi cảm thấy không cần thiết phải đưa ra nhiều lời bình, mà chỉ cần trích dẫn các câu thơ, các bài thơ của anh là đã nói lên tất cả.
Nguyễn Duy Cang sáng tác nhiều thể loại thơ, từ lục bát, tự do, đến thơ luật Đường. Các bài thơ luật Đường của anh nhiều khi toát ra từ tứ thơ chợt đến, xuất phát từ cảm hứng tức thời, nhưng cũng khá nhuần nhuyễn. Anh nắm chắc luật, lệ thơ Đường và đôi lúc cũng sử dụng các ngón chơi thơ, như khoán thủ (trong bài "Anh yêu em"), nhưng trước hết, anh chú trọng đến ý thơ, chất thơ.
Thơ của Nguyễn Kiều Duy Cang Bằng là tâm sự. Hầu như hàng ngày có tâm tư gì anh đều đưa vào thơ, từ việc chuyển nhà, đến phải chia tay với người thợ xây, rồi gặp "chuyện bất bình", gặp người nghèo khó lam lũ qua đường, v.v. Nhưng có lẽ viết về người bạn đời là tâm sự lớn nhất, sâu sắc nhất của nhà thơ. Đọc tập "Lộc đời bên tôi", ta thấy tác giả rất mãn nguyện với mối tình, với người bạn đời của mình "Trời đất cho ta một mối tình" (Bài "Với bạn đời") và đúng như Nguyễn Duy Cang đã viết, người bạn đời mãi mãi là nữ hoàng của đời anh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

LẠI BÀN VỀ THƠ XƯỚNG HOẠ
Xướng hoạ là một trong những thú giao lưu được nhiều người chơi thơ luật Đường ưa thích.
Trong bài "Một số điểm cần lưu ý khi sáng tác thơ luật Đường" đăng trong nội san "Thơ luật Đường Nhuệ Giang" số 5 ra quý I/2015, chúng tôi đã đề cập đến thú chơi thơ xướng hoạ.
Sau đây xin bàn thêm về đề tài này, cụ thể là trao đổi thêm về lỗi nhại từ áp vận và lỗi điệp vận.

- Lỗi nhại từ áp vận trong bài hoạ: Trong bài thơ hoạ, không được nhắc lại từ áp vận (chữ sát vần, tức chữ thứ 6 trong câu thơ) của bài xướng, nếu không sẽ mắc lỗi nhại từ áp vận.
Ví dụ:
Nếu bài xướng có câu: "Tháng ngày phiêu bạt ngóng quê hương"
mà bài hoạ dùng câu: "Xa xôi vời vợi nhớ quê hương"
là nhại từ áp vận "quê". Phải sáng tác bài hoạ để trong câu không có chữ "quê" đứng sát trước chữ "hương", ví dụ có thể dùng các từ "cố hương", "đồng hương" ... chẳng hạn.
Xin nhắc lại là, khi bài hoạ khác thể bằng trắc với bài xướng, thì không bao giờ mắc phải lỗi nhại từ áp vận (Đã đề cập trong bài "Một số điểm cần lưu ý...").
Tuy vậy, cũng có những trường hợp ngoại lệ, rất hãn hữu, khi người hoạ cố tình lặp lại một vài từ, thậm chí có khi lặp lại cả một vài câu của bài xướng để nhấn mạnh chính kiến của mình, có thể coi như là một kiểu chơi thơ xướng - hoạ. Điều quan trọng là, khi nhắc lại một từ áp vận, thì từ đó phải thật "đắt", thật sâu sắc, mới được người chơi thơ chấp nhận thưởng thức. Còn những từ áp vận do "túng bí" phải lặp lại, thì cần tránh ngay.
Cũng có người cho rằng, việc bắt lỗi khi nhắc lại từ áp vận là vô li, không cần thiết, làm cho trường phái chê bai thơ luật Đường thêm đắc ý, coi đây là loại thơ cổ lỗ, cứng nhắc, chỉ tìm cách bắt bẻ nhau những chuyện vớ vẩn đâu đâu. Miễn bài thơ hay, đúng luật là được. Nhắc lại từ áp vận thì đã làm sao? Thơ Đường hiện đại cần thoáng hơn, không nên quá gò bó, không nên đặt ra những lỗi như mạ đề chẳng hạn. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng, chính sự chặt chẽ, lắm quy định khác nhau là cái hay, cái tinh tuý của thơ luật Đường. Thế mới gọi là dòng thơ "bác học". Đương nhiên, dù theo trường phái nào, thì khi gửi bài đi thi thơ, không ai dại gì "thách thức" ban giám khảo bằng cách nhắc lại từ áp vận hay phạm đề, để bị loại khỏi "trường thi".
Một ví dụ điển hình của kiểu chơi thơ xướng hoạ phá cách lặp lại từ áp vận là bài Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạ thơ Nguyễn Hải Thần.
Bài xướng của Nguyễn Hải Thần gửi cụ Hồ như sau:
Gánh vác việc đời ông với tôi
Con đường gai góc xẻ làm đôi
Cùng chung đất nước, chung bờ cõi
Cũng một ông cha, một giống nòi
Đành chịu nước cờ thua nửa ngựa
Còn hơn miệng thế chế mười voi
Mấy lời nhắn nhủ cùng ông biết
Nước ngược buông câu phải lựa mồi.
Bài hoạ của Hồ Chủ tịch cố tình nhắc lại từ "giống nòi":
Ông biết phần ông, tôi biết tôi
Quyết giành thắng lợi, chẳng chia đôi
Đã sinh đầu óc, sinh tai mắt
Nỡ bỏ ông cha, bỏ giống nòi
Họ trót sa chân vào miệng cọp
Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi
Cờ tàn mới biết tay cao thấp
Há phải như ai cá đớp mồi.
Như trong bài "Tháng 5 nhớ Bác" đăng ở Bản tin số 6, ra quý II/ 2016 chúng tôi đã phân tích, Hồ Chủ tịch có thể không lặp lại cụm từ "bỏ giống nòi", mà dùng "kẻ lạc nòi" chẳng hạn, rồi sửa lại câu thứ 3 cho cặp thực đối nhau, nhưng Bác đã cố tình nhấn mạnh, chỉ cho Nguyễn Hải Thần biết, chính ông ta đã tự mình "bỏ ông cha, bỏ giống nòi". Câu thơ thật sắc bén và chí lí!
Ngày nay, nhiều người nhớ đến bài hoạ mang tính bút chiến rất nổi tiếng này trong lịch sử thơ xướng hoạ, cũng như nhắc đến những bài xướng hoạ giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị, đặc biệt, hai bài "Tôn phu nhân quy Thục", cùng một đề tài, nhưng mang hai chính kiến trái ngược nhau.

- Lỗi điệp vận: Từ trước đến nay, người ta vẫn cho rằng, nếu hai vần giống nhau, nhưng khác nghĩa thì không mắc lỗi điệp vận (ví dụ từ "hương" trong hương liệu, hương vị, hương thơm là khác nghĩa với quê hương, cố hương, đồng hương). Trong chữ Quốc ngữ, chữ đọc giống nhau thì viết cũng như nhau, nhưng trong chữ Nôm cũng như chữ Hán, chữ đọc giống nhau có thể viết khác nhau. Ta hãy đọc bài "Thu điếu" của Tam nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cũng có ý kiến cho rằng, nếu bài xướng có hai vần cùng từ, khác nghĩa, thì bài hoạ có thể tránh bằng cách "hoạ nương vần", thay một trong hai vần trùng từ bằng từ khác. Những bài hoạ "nương vần" thực chất là "xuất vận".
Song ý kiến khác lại cho rằng, đã là hoạ thì phải hoạ nguyên vận, chỉ có thể đảo vận, hoán vận, thậm chí loạn vận, nếu không sẽ thành một bài thơ riêng biệt. Những bài xuất vận không phải là bài hoạ. Một bài hoạ nghiêm chỉnh, có giá trị, là hoạ nguyên vận, vẫn dùng những vần trùng từ như bài xướng, nhưng phải khác nghĩa.
Để dung hoà, ý kiến thứ ba cho rằng, "hoạ nương vần" cũng có thể coi là hoạ, nếu vẫn lấy chủ đề của bài xướng, còn nếu lấy chủ đề khác, tức là định hoạ "tá vận", lại bị xuất vận, thì không còn là hoạ nữa.
Xin mở ngoặc nói thêm, gần đây có người nghĩ rằng, câu thứ 4 của bài "Thu điếu" có cụm từ "...khẽ bay vèo", hoặc "...khẽ đưa vèo", hay câu thứ 7 là "...buông cần câu...", "...ôm cần câu...". Về ý thì không có gì thay đổi, nhưng từ trước đến nay, hầu hết các sách và tài liệu giới thiệu thơ Nguyễn Khuyến đều đưa ra phiên bản như chúng tôi đã giới thiệu trên đây. Chú ý là trong tiếng Việt, từ "sẽ" có cả nghĩa như "khẽ".
Cũng có thi huynh cố tình đưa ra những bài mời hoạ có hai vần cùng từ khác nghĩa hoặc khó tránh nhại từ áp vận để "thử tài" người hoạ. Đấy là chưa nói đến kiểu thi hoạ hạn vận, không có bài xướng, mà người ra đề hạn định nội dung và 5 từ cố định mang vần của bài thơ. Kiểu chơi này ngày nay rất ít người hưởng ứng.
Trên đây chỉ bàn đến những bài thơ để giao lưu, thưởng thức hoặc đối đáp với nhau. Còn khi sáng tác các bài thơ dự thi, phải hết sức tránh điệp vận, dù là khác nghĩa, vì ngày nay không dùng chữ Nôm, mà dùng chữ Quốc ngữ. Chắc không ai lại nộp bài xướng điệp vận để thi thơ xướng hoạ, vì biết trước là thế nào cũng bị trừ điểm, chẳng "dại gì" đi "thử tài" ban giám khảo.
Nói chung, khi hoạ thơ, thường người chơi hoạ y vận, nhưng cũng có bài hoạ đảo vận, hoạ hoán vận, hoạ loạn vận, nhưng vẫn phải hoạ nguyên vận...

Sau đây xin giới thiệu hai cặp thơ xướng hoạ nổi tiếng giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị để bạn đọc thưởng thức.
Tôn Thọ Tường (1825-1877), làm tay sai cho Pháp dưới thời nhà Nguyễn, được người Pháp trọng dụng.
Còn Phan Văn Trị (1830-1910), nổi tiếng một thời ở Bến Tre, chỉ sau nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888). Phan Văn Trị quê ở Bến Tre, nơi Nguyễn Đình Chiểu sống những năm tháng cuối đời, sau nhiều lần chạy loạn Pháp xâm lược. Tuy ít tuổi hơn Nguyễn Đình Chiểu, nhưng Phan Văn Trị cùng chí hướng bất hợp tác với Pháp, chán ghét triều đình, không chịu ra làm quan, đả kích, vạch mặt những kẻ phản quốc cầu vinh như Tôn Thọ Tường.
Trong cặp thơ "Tôn phu nhân quy Thục", Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị đều chọn đề tài em gái Tôn Quyền, vua Đông Ngô thời Tam Quốc bên Trung Hoa, lấy Lưu Bị là vua nhà Thục Hán, để bày tỏ thái độ của mình trước thời cuộc.
Tôn Thọ Tường muốn dùng bài thơ này để tự thanh minh cho mình. Ông ta biết, việc cúc cung phục vụ thực dân Pháp bị các chí sĩ, bạn bè phê phán, nên chống chế "thà mất lòng anh đặng bụng chồng", thà bị chê cười, vẫn phải "trau tria má hồng" để vừa lòng người Pháp, cho đó là thức thời, vẫn tự coi mình như "rạng tiết gái Giang Đông", mặc dù lòng cũng vấn vương "bịn rịn" khi quay lưng lại non sông đất nước, chứng tỏ tư tưởng cơ hội của tác giả.
Tôn phu nhân quy Thục
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng.
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông?
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn (*),
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
Tôn Thọ Tường
(*) Chu Công Cẩn, tức Chu Du, Đại Đô đốc bên Ngô, muốn dùng kế gả em gái Tôn Quyền cho Lưu Bị để diệt nhà Thục, nhưng bị thất bại trước phản kế của Gia Cát Lượng.
Trong bài hoạ y đề, Phan Văn Trị đã bày tỏ đức tính khảng khái, dứt khoát trước sau như một, chỉ trích thái độ cầu an của Tôn Thọ Tường:
Tôn phu nhân quy Thục
Cài trâm sửa trấp vẹn câu tòng,
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông.
Ngút toả trời Ngô ùn sắc trắng,
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi, Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.
Phan Văn Trị
Về hình thức nghệ thuật, ta thấy bút pháp luật Đường của Tôn Thọ Tường rất chỉnh chu, còn Phan Văn Trị trong bài này khá phóng khoáng, 3 lần lặp lại chữ "trời". Cũng có ý kiến cho rằng, người đời sau đã nhớ sai thơ Phan Văn Trị, ví dụ câu "Anh hỡi, Tôn Quyền..." là sai, vì như thế hoá ra Tôn phu nhân "hỗn" với vua anh của mình, dám lôi tên cúng cơm ông anh "Tôn Quyền" ra, mà phải là "Tôn công" mới đúng. Nhưng nếu câu thơ là "Anh hỡi, Tôn Công anh có biết" lại phạm phải lỗi khổ độc. Tuy nhiên, như trên đã nói, Phan Văn Trị khá phóng khoáng, câu "Hai vai tơ tóc..." đã mắc lỗi này. Vấn đề chủ yếu để Phan Văn Trị dùng câu "Anh hỡi Tôn Quyền..." là, trong thực tế, Tôn phu nhân cũng biết vua anh coi mình như vật hi sinh, theo kế Chu Du, gả em gái cho Lưu Bị để khống chế, thậm chí hạ sát Lưu Bị, sẵn lòng biến em gái mình thành người goá bụa. Đương nhiên, đó cũng là thói thường trong lịch sử ngàn đời Trung Hoa, không trách Tôn Quyền được. Mặt khác, ngay trong bài xướng của Tôn Thọ Tường, em gái của Tôn Quyền đã bộc lộ "Thà mất lòng anh" và tỏ ý coi thường Đại Đô đốc khi dùng câu "nhắn với Chu Công Cẩn".
Cái hay, cái sâu sắc, "ý tại ngôn ngoại" của cặp "Tôn phu nhân quy Thục" khiến đến ngày nay nhiều người vẫn lấy làm ví dụ cho thơ xướng hoạ. Cả hai bài chỉ nói chuyện bên Tàu, không hề nhắc gì đến người Pháp, người Việt, nhưng đọc lên là hiểu ngay ý tác giả muốn nói gì.
Cặp thơ xướng hoạ dưới đây, tuy ít được người đời sau nhắc đến hơn, nhưng không kém phần thâm thuý, cũng với một Tôn Thọ Tường tự thanh minh cho hành động theo Pháp trong bài "Từ Thứ quy Tào" (*) và bị Phan Văn Trị chế giễu, đả phá lại trong bài "Vịnh hát bội".
(*) Từ Thứ, một nhân vật thời Tam Quốc bên Trung Hoa, từng làm quân sư cho Lưu Bị. Tào Tháo muốn dùng ông này, đã theo kế của Trình Dục, bắt mẹ Từ Thứ, rồi giả mạo chữ bà viết thư cho con. Từ Thứ rất có hiếu với mẹ, nhưng sau khi gặp mẹ mới biết mình bị lừa, quyết không theo quân Nguỵ của Tào, nhưng cũng không thể về với nhà Thục Hán của họ Lưu được nữa.
Từ Thứ quy Tào
Hiếu đâu dám sánh kẻ cày voi,
Muối xát lòng ai, nấy mặn mòi.
Ở Hán còn nhiều rường cột vững,
Về Tào chi sá một cây còi!
Mảng nghe nhớ mẹ khôn nâng chén,
Chạnh tưởng trông vua biếng giở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Nguỵ,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!
Tôn Thọ Tường
Vịnh hát bội
Đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi,
Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi.
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc,
Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi.
Trên trính có nhà còn lợp lọng,
Dưới chân không ngựa lại giơ roi.
Hèn chi chúng nói bội là bạc,
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.
Phan Văn Trị
Chúc các thi huynh, thi hữu thưởng thức nhiều thơ hay, giao lưu xướng hoạ rôm rả, sảng khoái, vui tươi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

LÒNG HIẾU THẢO CỦA NGƯỜI CON
TRONG "TÌNH CHA YÊN TỬ, NGHĨA MẸ BẠCH ĐẰNG"
Yên Tử, Bạch Đẵng - Những địa danh linh thiêng, lẫy lừng mà bất cứ người dân Đất Việt nào cũng biết đến. Đối với nhà thơ Kim Tuyên, đây còn là nơi để lại bao kỷ niệm không thể nào quên, gắn liền với cuộc đời và hoạt động Cách mạng cùa những người sinh thành ra mình.
Tập thơ "Tình cha Yên Tử, nghĩa mẹ Bạch Đằng", được Kim Tuyên cho ra mắt nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của cha và 10 năm ngày mất của mẹ, những người dù gian lao, oan trái, khổ hạnh vẫn tận tuỵ hi sinh, trung thành với Cách mạng.
Chủ đề xuyên suốt của tập thơ là tình mẹ nghĩa cha, là lòng kính nhớ của người con đối với bậc sinh thành. Dù ngày hay đêm, chợt tỉnh giấc cũng muốn chấp bút viết ngay những câu thơ ngợi ca cha mẹ.
"Canh ba tỉnh giấc kiếm vần thơ...
...Yên Từ chí cha ngời sử sách
Bạch Đằng tình mẹ rực trang thơ" (Bài "Nhớ cha mẹ").
Tác giả đã viết những vần thơ chân thành, không màu mè, hoa mỹ, nhiều lúc như tâm sự, kể về cha mẹ, thể hiện một cách sâu sắc lòng kính yêu vô bờ của người con gái đối với người cha Sư Tuệ, người mẹ Lê Thị Nhuần, những ngọn đèn trong sáng như vầng trăng rọi chiếu tâm hồn mình.
"Một ánh trăng trong, một ngọn đèn
Tâm hồn thanh thản, chẳng bon chen..."
Đối với nhà thơ, cha mẹ là thần tượng để mãi mãi noi theo. Những câu thơ ca ngợi người cha đầy khí phách:
"Gông cổ, đọc thơ vang ngục thất..." (Bài "Ngọn đèn").
Hay
"Chân xiềng vẫn hát bài '...Hy vọng...'
Tay xích hằng mơ sao '...Ánh vàng,,," (Bài "Cha").
Ông đã từ quê mình ở Nam Định lên Yên Tử tham gia Đệ Tứ Chiến khu, "khoác áo cà sa..." chủ yếu để "...che mắt địch", "Đánh đuổi Nhật Tây giành độc lập" (Bài "Đông Triều sáng mãi tên anh"). Đó cũng là quê người con gái đã "theo tiếng gọi tâm linh", mang lòng yêu ông.
Người mẹ Lê Thị Nhuần đã cảm phục, nghe theo nhà sư Cách mạng, cô "Nữ sinh đất Quảng vào du kích" (Bài "Ghi nhớ"), trở thành cán bộ Việt Minh, cũng:
"...Cưỡi ngựa, cứu thương...duyên gắn bó
Chèo thuyền, liên lạc...dạ kiên trinh..."
(Bài "Tình sử").
Một mối tình cao đẹp, sắt son, đáng "ghi nhớ".
Lòng sùng kính cha mẹ của nhà thơ không lời nào tả xiết. Mỗi khi ngồi "đánh máy in thơ cha", lệ người con gái cũng lã chã "trào tuôn". (Bài "Đánh máy in thơ của cha")
Với Kim Tuyên, bất cứ kỷ niệm nào, địa danh nào liên quan đến cha mẹ đều thiêng liêng, đặc biệt là đất mỏ Quảng Ninh, không những quê mẹ, mà còn là nơi hoạt động của cha. Tác giả đưa vào thơ, nhắc đi nhắc lại hàng loạt vùng miền đã gắn liền với tên tuổi cha mẹ, từ Bãi Cháy, Cửa Ông, Yên Tử, Mạo Khê, Cẩm Phả, Đông Triều, Quảng Yên, Bạch Đằng, đến Bác Mã, Yên Đức, Xuân Viên, Hố Lao, Ngoạ Vân, Tràng Bạch, Cầu Cầm, Mễ Xá... Thuỷ Nguyên, nay là một huyện của thành phố Hải Phòng, nhưng từng là một địa danh trực thuộc khu Hồng Quảng xưa, cũng được ghi nhớ.
Đối với nhà thơ, tấm gương suốt đời vì non sông đất nước, vì Cách mạng của cha mẹ, cũng như tình sử của hai người là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ văn của mình.
Kim Tuyên sáng tác nhiều thể loại thơ, trong đó có thơ luật Đường. Với cương vị của mình, chị được mời tham dự nhiều cuộc giao lưu thơ Đường ở khắp mọi miền đất nước. Đi đến đâu chị cũng để lại những bài thơ đầy tình nghĩa. Nhưng, thấm đẫm tình yêu thương hơn cả, da diết hơn cả vẫn là những vần thơ về cha mẹ.
Xin kính cẩn nghiêng mình trước những thần tượng của nhà thơ. Chúc Kim Tuyên sáng tác thơ ngày càng đằm thắm với mọi chủ đề, đặc biệt là về người cha Yên Tử, người mẹ Bạch Đằng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 45 trang (441 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [41] [42] [43] [44] [45] ›Trang sau »Trang cuối