Trang trong tổng số 1 trang (3 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Phụng Hà

Thơ Đào Tấn


 
 Đào Đăng Tấn, sau đổi là Đào Tấn, tự là Chỉ Thúc, hiệu là Tô Giang và Mộng Mai , biệt hiệu là Mai Tăng , sinh năm Ất Tị 1845 , tại thôn Vinh Thạnh, huyện Tuy Phước,phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định (nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định).  Ông đậu cử nhân hạng thứ 8 khoa Đinh Mão (1867) tại trường thi  Bình Định, dưới triều vua Tự Đức . Mãi đến bốn năm sau (1871) khi vua Tự Đức cho soát
xét lại , Đào Tấn mới được triệu về kinh thành  Huế nhận một  chức  nhỏ
trong ban Hiệu thư.Ông làm quan từ đời Tự Đức đến đời Thành Thái (1871 - 1904), kinh qua các chức vụ Tham biện, Phủ doãn, ba lần tổng đốc, bốn lần thượng thư, hàm nhất phẩm, được phong Hiệp biện Đại học sĩ, tước Vinh Quang tử. Đào Tấn là một vị quan thanh liêm,cương trực,được giới sĩ phu trọng nể và nhân dân yêu quí.

  Sinh thời, Đào Tấn làm thơ, viết từ khúc, viết tuồng và soạn tuồng hát bội. Nhưng xuất sắc hơn cả vẫn là sự nghiệp tuồng; hàng chục vở tuồng còn diễn đến ngày nay như Tam nữ đồ vương, Sơn hậu, Đào Phi Phụng, Hộ sanh dân, Trầm hương các , Khuê các anh hùng, ... Ông được coi là ông tổ của  ngành
hát bội.
 Ông mất năm 1907, hiện có đền thờ ở Bình Định. Hiện nay ở Hà Nội có con đường mang tên ông, thuộc phường Cống Vị - Ba Đình.

 Về thơ,  ông còn để lại ngót 200 bài. Trong Thơ và từ Đào Tấn ,
nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội 1987, đã giới thiệu 86 bài thơ và 23 bài từ.
Trong bài bạt, ông Hoàng Trung Thông viết: "Thơ ông giản dị mà sâu sắc,
Từ của ông phong phú và nhiều cảm xúc …"

  Dưới đây là một số bài thơ của Đào Tấn :

Bài 1:  

憶潘珊

昔年秋戰奪危科
今日他鄕苦若何
但願人民如此士
不愁定囻與安家

Phiên âm:

Ức Phan San  

Tích niên thu chiến đoạt nguy khoa
Kim nhật tha hương khổ nhược hà ?
Đãn nguyện nhân dân như thử sĩ
Bất sầu định quốc dữ an gia.

Dịch nghĩa:
Nhớ Phan San (Phan Bội Châu)

Lần so tài trong khoa thi mùa thu năm ấy chiếm bảng cao
Giờ ở quê người cực nhọc thế nào ?
Ước gì ai cũng như kẻ sĩ ấy
Thì việc trị nước yên nhà chẳng phải lo chi

Dịch thơ của Vũ Ngọc Liễn:

Năm ấy thi hương chiếm bảng cao
Giờ đây đất khách cực ra sao ?
Ước chi ai cũng như người vậy
Nước thịnh nhà yên chẳng khổ sầu.

Bài 2 :  

自佛

和南叩請彌勒佛
腹中許大藏何勿
笑云中有一團氷
祉是空空無處吃

Phiên âm :
Tự Phật  

Hòa nam khấu thỉnh Di Lặc phật (1)
Phúc trung hứa đại tàng hà vật
Tiếu vân trung hữu nhất đoàn băng
Chỉ thị không không (2) vô xứ ngật.  

(1) Câu kệ mở đầu mỗi lần lễ Phật
(2) Không không : tác giả mượn chữ "sắc sắc không không" của nhà Phật
với dụng ý chơi chữ "không không" tức là trống rỗng

Dịch nghĩa :

Phật ở mình

Kính cẩn xin hỏi phật Di Lặc
Trong bụng chứa vật gì mà to thế ?
Cười đáp: Trong ấy có một khối băng
Chả ăn gì cả, chỉ là trống rỗng.

Dịch thơ của Xuân Diệu :

Kính cẩn hỏi cùng phật Di Lặc
" Bụng chứa những gì mà phốp pháp "
Cười đáp : " Bên trong có tảng băng;
Chẳng ăn chi cả, toàn rỗng tuếch "

Bài 3 :  

偶作

有弟住城市
有兄居鄕村
终歲亊其亊
少見來吾門
非是親情疏
亦有眞意存
所以三休亭
常無車馬喧

Phiên âm :
Ngẫu tác  

Hữu đệ trú thành thị
Hữu huynh cư hương thôn
Chung tuế sự kỳ sự
Thiểu kiến lai ngô môn
Phi thị thân tình sơ
Diệc hữu chân ý tồn
Sở dĩ tam hưu đình
Thường vô xa mã huyên.

Dịch nghĩa:
Hứng viết

Có em ở thành thị
Có anh ở hương thôn
Suốt năm ai có việc của người ấy
Ít thấy đến chơi nhà
Vốn chẳng phải vì lợi lạt với người thân
Thật ra còn có điều thế này :
Bởi đây là chốn “tam hưu” (1)
Nên hằng ngày chẳng còn tiếng ồn ngựa xe lui tới

(1) Tam hưu đình: nhà ba thôi (thôi quyền quý, thôi xa hoa, thôi danh lợi).
Đây là chữ lấy từ điển ông Biểu Thánh đời Đường (Trung Quốc).

Dịch thơ của Xuân Diệu:

Có em ở thành thị
Có anh ở quê xa
Suốt năm ai việc nấy,
Ít thấy đến chơi nhà,
Chẳng phải vì lợt lạt;
Có điều chưa nói ra:
Bởi đây “nhà ba thôi”
Không còn xe ngựa qua.

Bài 4 :  

哭潘廷元

破竹眞能復舊京
十年功績痛垂成
但悲金幣堅和議
忍使香盆聚哭聲
手挽山河心未死
身騏箕尾気猶生
經過當日班師地
千古令人涕淚橫

Phiên âm :
Khốc Phan Đình Nguyên  

Phá trúc chân năng phục cựu kinh
Thập niên công tích thống thùy thành
Đãn bi kim tệ kiên hòa nghị
Nhẫn sử hương bồn tụ khốc thanh
Thủ vãn sơn hà tâm vị tử
Thân kỳ Cơ, Vĩ khí do sanh
Kinh qua đương nhật ban sư địa
Thiên cổ linh nhân thế lệ hoành.

Dịch nghĩa:
Khóc Phan Đình Nguyên (Phan Đình Phùng)

Thế mạnh chẻ tre, thật có thể khôi phục kinh thành cũ
Công tích mười năm, đau xót thay nghiệp sắp thành
Buồn vì nỗi tiền bạc mà triều đình khăng khăng nghị hòa
Nỡ khiến quanh bình hương phải tụ tiếng khóc
Một tay cứu vớt non sông, tấm lòng son chửa mất
Thân dù cưỡi sao Vĩ sao Cơ, mà khí phách vẫn còn nguyên
Qua nơi thắng trận năm nào
Dù đến nghìn sau vẫn khiến người ta phải sụt sùi rỏ lệ.

Dịch thơ của Yến Lan:

Thế chẻ tre chờ dựng nước non.
Mười năm công tích nghĩ đau buồn
Thảm thay vàng lụa lo hòa nghị
Nỡ khiến lò hương tụ khóc thương
Cứu nước tay buông lòng chẳng chết
Cỡi sao thân khuất chí còn hun
Qua nơi thắng trận ban sư trước
Mười vạn đời sau lệ vẫn tuôn.

Bài 5 :  

有所思

思與君別來
幾見芙蓉花
盈盈隔秋水
若在天一涯

欲涉不得去
茫茫足烟雾
香江多芳草
何心採衡杜

青鳥髙雲間
錦書何时还
君心雖匪石
有恐凋朱顏

朱顏不可仗
哪能不惆悵
何如双翡翠
飛去蘭苕上

Phiên âm :
Hữu sở tư

Tư dữ quân biệt lai
Kỷ kiến phù dung hoa
Doanh doanh cách thu thủy
Nhược tại thiên nhất nha

Dục thiệp bất đắc khứ
Man man túc yên vụ
Hương giang đa phương thảo
Hà tâm thái hành đỗ

Thanh điểu cao vân gian
Cẩm thư hà thời hoàn
Quân tâm tuy phỉ thạch
Chỉ khủng điêu chu nhan

Chu nhan bất khả trượng
Na năng bất trù trướng
Hà như song phỉ thúy
Phí khứ lan thùy thượng

Dịch nghĩa:
Có điều suy nghĩ

Từ lúc cùng chàng chia tay
Đã bao lần nhìn hoa phù dung nữa
Chỉ cách một dòng nước mùa thu
Mà như ở tận góc trời nào

Muốn đến nhưng không đến được
Bởi khói mù dày đặc
Sông Hương lắm cỏ thơm
Lòng nào lại đi tìm cỏ lạ

Trời cao chim xanh bay
Thư gấm chừng nào gởi về
Lòng tuy không phải là sắt đá
Chỉn e nét son hao gầy

Nét son mà không còn như xưa
Làm sao chẳng đau buồn
Giá được làm chim phỉ chim thúy
Ta sẽ bay vào vườn hoa lan hoa thiều

Dịch thơ của Minh Quang, Xuân Diệu:

Từ biệt chàng đến nay
Bao lần phù dung nở
Không xa quá dòng thu
Mà góc trời cách trở

Muốn đến nhưng khó đi
Khói mù dày đặc cả
Sông Hương lắm cỏ thơm
Lòng nào hái cỏ lạ

Chim xanh tít tầng mây
Mong thư gấm về đây
Lòng tuy không phải đá
Nét son e lợt phai

Nét son không như cũ
Làm sao chẳng đau buồn
Ước làm chim phỉ thúy
Vườn lan thiều bay sang.

Bài 6 :  

行歩偶得

馬過沙南閒歩月
舟橫潮口半迊風
十年來徃鴻藍路
清曠吟懷似此中

Phiên âm :
Hành bộ ngẫu đắc

Mã quá sa nam nhàn bộ nguyệt
Châu hoành triều khẩu bán nghênh phong
Thập niên lai vãn Hồng Lam lộ
Thanh khoáng ngâm hoài tự thử trung.

Dịch nghĩa:
Đi công cán hứng viết

Ngựa vượt khỏi phía nam bãi cát thì thả bộ dưới trăng
Thuyền chèo ngang cửa biển nửa phần đón gió
Mười năm qua lại con đường núi Hồng sông Lam
Thơ văn ta cũng trong sạch như cảnh nước non vậy.

Dịch thơ của Xuân Diệu:

Ngựa qua cát nam trăng đón bước
Thuyền ngang cửa biển gió vơi buồm
Mười năm qua lại Lam Hồng đó
Trong sạch lòng thơ như nước non.

Bài 7 :  

贈黄繼炎將軍

君中無酒慰飄零
辜負沙頭雙玉瓶
鞍馬幾年南北路
關河千古短長亭
好風到枕客愁破
残月入簾歸夢精
夢断故山人不見
晓來江上数峯青

Phiên âm :
Tặng Hoàng Kế Viêm tướng quân

Quân trung vô tửu ủy phiêu linh
Cô phụ Sa Đầu song ngọc bình
Yên mã kỷ niên nam bắc lộ
Quan hà thiên cổ đoản trường đình
Hảo phong đáo chẩm khách sầu phá
Tàn nguyệt nhập liêm quy mộng tinh
Mộng đoạn cố sơn nhân bất kiến
Hiểu lai giang thượng sổ phong thanh.

Dịch nghĩa:
Tặng tướng quân Hoàng Kế Viêm

Trong quân không có rượu để an ủi sự phiêu linh
Đành phụ đôi bình ngọc ở nơi đầu bãi
Yên ngựa bao năm, hết đường Nam lại đường Bắc
Quan hà nghìn thuở, thôi trường đình lại đoản đình
Gió mát lùa vào gối xua tan sầu lữ khách
Trăng tàn lọt qua rèm lay tỉnh mộng trở về
Mộng đứt, chẳng thấy người non cũ
Sáng ra chỉ thấy mấy bóng núi xanh ngả trên sông

Dịch thơ của Xuân Diệu:

Khoây khỏa trong quân rượu có đâu
Phụ đôi bình ngọc tại Sa Đầu
Bao năm yên ngựa đường Nam Bắc
Muôn thưở quan hà chốn tiễn nhau
Lọt gối gió lành sầu khách phá
Xuyên rèm trăng lụn mộng quê xàu (2)
Mộng tàn, chẳng thấy người non cũ
Sớm dậy; non xanh chiếu nước sâu.

(2) Xàu:  héo xàu (tiếng miền Trung, miền Nam)

Bài 8 :  

寄懷荷亭公

歳暮懁人寄遠書
苛亭風景近何如
年年記取岩頭月
十二囘園到索居

Phiên âm :
Ký hoài Hà Đình công

Tuế mộ hoài nhân ký viễn thư
Hà Đình (1) phong cảnh cận hà như
Niên niên ký thủ nham đầu nguyệt (2)
Thập nhị hồi viên đáo tác cư. (3)

(1) Hà Đình: biệt hiệu của Nguyễn Thuật, người Quảng Nam,  bạn thân với
     Đào Tấn. Còn có nghĩa là nhà hoa sen
(2) Nham đầu nguyệt: trăng đầu ghềnh. Có thể đây là một kỷ niệm nào đó
     giữa các tác giả và ông Hà Đình.
(3) Sách “Luận ngữ”  có câu “Lý quần tác cư” nghĩa là lìa bầy ở riêng.
   Chữ “sách” ở đây đọc là “tác”

Dịch nghĩa:
Nhớ ông Hà Đình, gởi thư thăm

Năm hết nhớ người bạn xa gởi thư thăm
Phong cảnh nhà hoa sen chẳng biết gần đây ra sao
Hằng năm hãy nhớ đến mảnh trăng đầu ghềnh
Mười hai độ trăng tròn trăng đã soi đến nơi ta ở lẻ loi

Dịch thơ của Tống Phước Phổ,Vũ Ngọc Liễn:

Nhớ người năm hết thư trao
Nhà sen phong cảnh thế nào hở anh?
Mãi nhìn bóng nguyệt đầu ghềnh
Tròn mười hai độ nơi mình sáng soi.

Bài 9 :  

歲暮偶占書寄荷亭休翁

野色山光渐入春
村橋小立意狻巡
歸來自有田園樂
何處天涯憶故人

Phiên âm :
Tuế mộ ngẫu chiếm thư ký Hà Đình hưu ông

Dã sắc, sơn quang tiệm nhập xuân
Thôn kiều tiểu lập ý toan tuần
Quy lai tự hữu điền viên lạc
Hà xứ thiên nhai ức cố nhân.

Dịch nghĩa:
Cuối năm chợt nghĩ viết gửi cho bạn quan hưu Hà Đình

Màu quê sắc núi đã dần chuyển vào xuân
Đứng chốc lát trên cầu quê, lòng những bâng khuâng
Về hưu là ta đã có nguồn vui với đồng ruộng
Vậy mà cứ nhớ người bạn cũ đang ở phương trời nào

Dịch thơ của Tống Phước Phổ:

Sắc núi màu quê sắp chuyển xuân
Cầu thôn đứng tựa dạ bâng khuâng
Về hưu sẵn thú vui vườn ruộng
Mà cứ ven trời nhớ cố nhân.


Bài 10 :  

七夕

人閒天上慢多愁
寄語双星莫白頭
松菊別來三十載
佳期我亦老牽牛

Phiên âm :
Thất tịch  

Nhân gian thiên thượng mạn đa sầu
Ký ngữ song tinh mạc bạch đầu
Tùng cúc biệt lai tam thập tải
Giai kỳ ngã diệc lão khiên ngưu.

Dịch nghĩa:
Mồng bảy tháng bảy

Dưới trần gian cũng như ở trên trời, đừng chuốc lắm nỗi sầu
Xin nhắn với hai vì sao (Ngưu Lang và Chức Nữ) chớ bạc đầu
Đã ba mươi năm xa cội tùng, khóm cúc
Nên ta cũng là chàng Ngưu già mong gặp lại

Dịch thơ của Vũ Ngọc Liễn, Xuân Diệu :

Cõi trời cõi thế chuốc chi sầu
Nhắn nhủ đôi sao chớ bạc đầu
Ba chục năm xa tùng với cúc
Ta đây cũng một lão già Ngâu.

Bài 11 :  

辛丑除夕

了得一年亊
同游三日春
竹符着放下
千慮又随人

Phiên âm :
Tân Sửu trừ tịch

Liễu đắc nhất niên sự
Đồng du tam nhật xuân
Trúc phù khan phóng hạ
Thiên lự hựu tuỳ nhân.

Dịch nghĩa:

Xong công việc một năm
Cùng vui ba ngày Tết
Khi cây nêu hạ xuống
Ngàn nỗi lo lại theo người.

Dịch thơ của Xuân Diệu :

Việc một năm đã hết
Ba ngày xuân cùng vui
Khi cây nêu hạ xuống
Ngàn nỗi lo theo người.

Bài 12 :  

楊柳之詞其二

寒食東風以滿城
小枝繊弱拂啼鶯
東君不惜離人苦
又向前年折處生

Phiên âm :
Dương liễu chi từ kỳ 2

Hàn thực đông phong dĩ mãn thành
Tiểu chi tiêm nhược phất đề oanh
Đông quân bất tích ly nhân khổ
Hựu hướng tiền niên chiết xứ sinh.

Dịch nghĩa:
Lời nhành liễu kỳ 2

Tiết hàn thực, gió xuân đã đầy thành
Cành tơ mềm mại vẫy gọi chim oanh
Chúa xuân không biết thương xót kẻ xa nhà
Lại nhằm vào chỗ gãy năm trước mà nẩy lộc.

Dịch thơ của Xuân Diệu :

Gió đông "hàn thực" ngập đầy thành
Cành tơ mềm mại vẫy chim oanh
Chúa xuân chẳng xót người ly cách
Ngay nơi chỗ bẻ nẩy chồi xanh.
                   -----------------

Tài liệu tham khảo :

I. Phần thơ:

THƠ VÀ TỪ ĐÀO TẤN, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987

II. Tiểu sử:

1/ Việt Nam danh nhân từ điển, Nguyễn Hoàng Anh, Cơ sở Xuất bản
    Sudasie, Paris
2/ Quốc triều hương khoa lục, Cao Xuân Dục, Nxb TP HCM, 1993
3/ www.vi.wikipedia.vn
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

maytapbung

thơ hay quá cảm ơn về mấy bài ngâm này thử giản và hòa nhịp với[url=http://maytapbung.net/san-pham/may-chay-bo.html?kv=hcm]máy chạy bộ[/url] hiện đại nhất
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Cảm ơn bác rất nhiều. Cháu đã gửi các bài này lên đây: http://www.thivien.net/vi...ID=ZFmBytLkTH8oyiE6k7djEA
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài viết)
[1]