Trang trong tổng số 98 trang (973 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [94] [95] [96] [97] [98] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

hongvan28

   DỊCH CUNG OÁN NGÂM KHÚC:
                                  NGUYỄN CHÂN

273
Ai ngờ tiếng dế dan ri rỉ
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng
Vắng tanh nào thấy vân mòng
Hơi thê lương lạnh ngắt song phu huỳnh

273.Mais ce ne sont que les gémissements des grillons
Qui leurrent de sa voix triste d’automne la solitaire
Dans l’isolement, je n’ai aucune nouvelle du Roi
Seul le souffle froid de la fenêtre aux lucioles

273.Но это только стрекотания кузнечиков
Которые зовут уединнёную грусным тоном
Беслюдно! Никакого известия нет!
Дует унылый воздух cо двери где мигают свеляки

277.Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai
Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi
Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má gieo

277.Quand les rayons lunaires s’inchinent sur le toit
Il me semble d’entendre des voix si pressantes
Des servantes qui m’appellent à vite voir le Roi
Je vide mon pot de fard ranci ravivant mes joues ridées

277. Когда луна наклоняется на крыше
Слышала как наименования на уши
Думую, что служанки, которые вызывают
Вынимаю кувшин пудр, чтоб оживлять шёки

281.Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả
Điệu thương xuân khóc ả sương khuê
Lạnh lung nào thấy ỏ ê
Khi bi thương sực nức hè lạc hoa

281.Mais ce ne sont que des cris prolongés des marouettes
Avec l’air de regret du printemps qui pleure la veuve
Dans ce froid comment pourrai-je trouver qui me console
Seul un triste parfum des fleurs tombées sur la véranda

281.Но это только без умолку крики пастушки
Жалея весны, плачут молодую вдову
Никто не придёт утешать меня в стуже
Только грустно пахнут осыпанные цветы

285.Tiếng thuý điện cười già ra gắt
Mùi quyền môn thắm rắt nên phai
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi
Thì thong thả vậy cũng thôi một đời

285.Les rires à l’excès des palais deviennent agaçants
L’éclat vivement pompeux de puissance est décoloré
Si j’avais su que le milieu influent se ternira
Je n’aurais pas à me presser, j’aurai vécu ma simple vie

285.На оделочном дворце много смехов надоели всем
Блеск власти слишком яркий уж стал ославлять
Если думала бы, что слава эта тускнет
То не торопилась бы кончить мои дни

289.Vì sớm biết lòng giời đeo đẳng
Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh
Nghĩ mình lạ ngán cho mình
Cái hoa đã chót gieo cành, biết sao

289.Si j’avais su d’avance que le Ciel me poursuit
Je n’aurais à aucun prix accepté cette vie
Plus je pense à mon sort, plus j’en suis dégoûtée
Fleur détachée de la branche, que pourrait-elle agir?

289.Если заранее знала б, что Бог меня следил
Не приняла б эту жизнь, хотя много мне платили
Думуя о себе, сама очароваюсь
Что можно делать цветом, раз он уже упал

                  NGUYỄN CHÂN
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

Dịch Cung oán ngâm khúc:
                          NGUYỄN CHÂN

                  Tiếp theo.....

293.Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm

Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon

Cùng nhau một giấc hành môn

Lau nhau ríu rít cò con cũng tình



293.Les mets sont recherchés et raffinés mais causent des nausées

Les simples légumes sont frugaux, mais appétissants

Vivons ensemble sous une humble cabane

Avec de nombreux petits enfanrs, c’est bien là le bonheur



293.Изысканные еда деликатные, но тошные

Овошные блюда скромны, но вкусные

Вместе двоим проживём под скромой крышой

Со многими детишкими как птичкими, точное счастье



297.Mình có biết phận mình ra thế

Dải kết điều oẻ oẹ làm chi?

Thà rằng cục kịch nhà quê

Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này



297.Si j’avais su que mon sort serait comme cela

Lié les fils d’amour comme simagrée, je n’aurais pas

Et j’aurais choisi une vie à la campagne

Sans ferais pas dorloter ni lune et ni fleur



297.Знала бы, что своя судьба так откланялась

Зачем мне эти притворности с красными нитками

Не луше бы была нескладной крестьянкой

Не вызывала капризы с луной и цветом



301.Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ

Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn

Muốn đem ca tiếu giải phiền

Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu



301….S’estompe silencieusement l’ombre de la lune

Mélancoliquement s’amaigrit la flamme de la lampe

Je voudrais rire et chanter pour trancher mon chagrin

Mais les rires se font sanglots et les chansons-gémissements



301.Тихим вечером стушевается свет луны

Унылый вид кончика фитиля лампы

Хочется мне петь и смеять чтоб разгонять тоску

Но cмехи стались плачами, а песни-с грусным тоном



305.Ngọn tâm hoả đốt rầu nét liễu

Giọt hồng băng thấm ráo lòng son

Dơ buồn đến cảnh con con

Chè chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi



305.La flamme de mon cœur brûle mes beaux sourcils

Mes larmes, tel du givre enlèvent tout mon fard

Ma honte et tristesse se répandent sur toute choses

Le thé à peine infusé, l’encens étire des volutes



305.Cердечная пламя скорбит мои брови

Красный иней сушит мои алые губы

Печаль моя пропитывает малые веши

Перед мной пресный чай, ладан на два завитка



309.Trong gang tấc mặt trời xa mấy

Phận hẩm hiu dường ấy vì đâu

Sinh li đòi rất thời ngâu

Một năm còn thấy mặt nhau một lần



309.Seul d’un empan me sépare dе l’Auguste Soleil

Qui est imputable de ma triste destiné

Faut-il prolonger сette séparation comme les époux Ngâu

Mais ils peuvent se revoir une fois chaque année



309.Я разделена от солнца-одна пядь только

Отчего такая несчастливая моя судьба?

Хуже даже супружеских Пастуха и Ткачихи

Которые ежегодно могут один раз встретится



313.Huống chi cũng lạm phần son phấn

Luống năm năm chực phận buồng không

Khéo vô duyên với cửu trùng

Thắm vào nhuộm lại tơ hồng cho tươi



313.D’autant plus, je suis ornée des rouges et des fards

Mais d’année en année je reste dans ma chambre déserte

Que vous êtes insensible, Mon Empereur!

De quel pourpre faut-il biser les anciens fils d’’hymen?



313.Тем более, я тоже одна красавица

Но год за годом ждаю его в пустой комнате

Как такой лишённый обаяня, Король!

Как могла краснить нити, что бы они посвежели



317.Vườn thượng uyển hoa cười với nắng

Lối di về ai chẳng chiều ong

Duyềnh Nhâm một dải nông nông

Bóng dương bên ấy đứng trông bên này



317.Dans les jardins royaux les fleurs sourirent au soleil

Le chemin est libre, qui n’aurait pas aider les abeilles

Un ruisseaau ombragé peu profond nous sépare

Debout sur un bord, je contemple les peupliers sur l’autre



317.В королевском саду цветы смеятся под солнцем

Свободный путь ко мне, кто запрещает пчёлям

Неглубокий тенистый ручей нас разделяет

На одном береге, я гляжу на тополь на другом
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

Dịch CUNG OÁN NGÂM KHÚC
                      Tác giả: Nguyễn Chân

321.Tình rầu rĩ làm khuây nhĩ mục
Chốn phòng không như giục mây mưa
Giấc chiêm bao những đêm xưa
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày

321.Dissipant les pensées lugubres, j’ouvre yeux et oreilles
Dans la chambre désete se rallument les désirs d’amour
Les rêveries des nuits d’autrefois se réveillent
Telles pluies après sécheresse, j’envie de vous voir

321.Рассея скорбные мысли, открою глаза и уха
Пустая комната как вызвала плотские желания
Вспоминаясь о сновидениях протёкших лет
Жажду их как капели дожди после долгой засухи

325.Trên chín bệ có hay chăng nhẽ
Khách quần thoa mà để lạnh lùng
Thù nhau ru, hỡi đông phong
Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào

325.Sur le Trône Auguste, connaissez-vous ma peine?
Laisser une femme dans telle solitude
Est-ce vrai que tu me hais, Ô, Vent d’Orient?
Une fleur de pêcher au parc ensoleillé, tu retiens

325.На Престоле знали Вы моё огорчение
Отставили в холоде такую красавицу
Ненавидите ли меня? Ах, Восточный Bетер!
На сонечном уголке сада удержал свежий цветок

329.Tay tạo hoá cớ sao mà độc
Buộc người vào kim ốc mà chơi
Chống tay ngồi ngắm sự đời
Muốn kêu một tiếng cho dài, khỏi căm

329.Pourquoi la main du Créateur est si cruelle?
Pour s’amuser à m’attacher dans le Palais d’Or
Assise, appuyée sur les bras, méditant aux chose du monde
J’envie de pousser un long cri pour exprimer ma haine!

329.Творец! Почему Вы такой слишком коварный?
Меня привязали в Золотом Дворце как щутка
Сидя, опираюсь на руку, думую о жизни
Хочела громко кричать, чтобы снять cвой гнев

333.Nơi lạnh lẽo, nơi xem gần gặn
Há phai son lạt phấn ru mà
Trêu ngươi chi mấy, trăng già
Sao con chỉ thắm mà ra tơ mành?

333.Ici, solitude, là-bas, à côté du Roi
Est-ce vrai-mon rouge et mon fard sont tout délavés?
Encore t’amuses-tu à me taquiner, Vieillard de la Lune?
Pourquoi mon fil rouge l’as tu fait si ténu?

333.Здесь холодная глушь, там полно ласками
Возможно ли, я полностью поблекнула?
Зачем меня раздражили ли так, Старая Луна?
Пурпуровая нить превратилась в тонкое волокно!

337.Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi
Khúc sầu tràng bối rối dường tơ
Ngọn đèn phòng động đêm xưa
Chòm hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn

337.Mon cœur blasé, ma tristesse répand sur toutes choses
Mes entrailles s’embrouillent comme les fils de soie
Sur la lampe éclairant l’ancienne chambre nuptiale
Les fleurs jumelles gardent encore leur fraîcheur

337.С угнечённым состоянием я грустила по всем
Душа моя растрепалась как волокна
Спаренная лампа в бывшой cвадебной комнате
Как и раньше без никаких измененний осталась

341.Mà lượng thánh đa đoan kíp mấy
Bỗng ra lòng run rẩy vì đâu
Bõ già tỏ nỗi xưa sau
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng

341.Mais les sentiments du Roi ont changé en peu de temps
Soudain, pour quelle raison, il m’a mal considérée
Mon vieux serviteur! Vous avez l’informé de toutres choses
Pourquoi n’avez vous rien dit à Sa Majesté?

341.Но чувство Короля очень быстро поменяло
Вдруг нет причины он меня покинул
Ах, Покорный слуга! вы меня прекрасно знаете
Почему вы об этом нечего ему не сказали

345.Đêm phong vũ lạnh lùng có một
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh
Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ

345….Dans la nuit orageuse je suis seule au monde transie
Les gouttes sur le bananier en rythmes tintent les veilles
Rasant les murs scintille la lueur des lucioles
Sur la cloison brumeuse ondule le clair de la lampe imprécise

345.В этой грозовой ночи чуствую одинокой
На листьах отмечают кануны капли дождя
Вдоль и поперёк стены мелкают облески светлячок
На перегородках струятся мглы, тускнеет лампа

349.Mắt chưa nhắp, đồng hồ đã cạn
Cảnh tiêu điều ngao ngán nhường bao
Buồn này mới gọi buồn sao
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình!

349.À peine fermés les yeux, l’horloge à eau est tarie
L’alentour est morne, le spectacle est navrant
Quelle nom pourrait-on appeler cette mélancolie
Toute la nuit, je me souviens de ma situation
pleine d’émotions

(KẾT LUẬN)

353.Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi
Những gương sầu phận tủi bao xong
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa!

(CONCLUSION)

353.L’ombre du poulain blanc file devant mes stores
Pourrais-je un jour finir avec mes tristesses et tracas
Pour qu’au cas, où Sa Majesté se rappelle
J’aie encore conservé mes joues roses d’antan

(ЗАКЛЮЧЕНИЕ)

353.Мелькнули перед шторой мои прекрасные дни
Как могла кочиться с грусью и горем пред зеркалом!
На случае размягчения сердца Короля
Могла бы сохранить ранние розовые щёки

              NGUYỄN CHÂN phỏng dịch 31.08.2016
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

HOA VỚI RƯỢU (*)
Tác giả: Nguyễn Bính

1.Thấy rét u tôi bọc lại mền,
Cô hàng cất rượu ủ thêm men,
Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ,
Say cả tư mùa cho khách quen .

5.Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi,
Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi .
Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ,
Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi .

9.Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà,
Người ta bắt chước chị người ta!
Ra vườn nhặt những hoa cam rụng,
Về bỏ đầy nồi cất nước hoa .

13.Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy,
Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau .
Hí hửng bảo nhau: "Thơm đấy chứ,
Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu!"

17.Một tối nhà Nhi có giỗ thầy,
Chị Nhi cho uống rượu cay cay,
Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa
Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say .

21.Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài,
Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai .
Chị Nhi cứ chế làm sao ấy,
Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười .

25.Chị Nhi thường nói với u tôi:
"Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!"
U tôi cười đáp ngay như thật:
"Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!"

29.Thưở ấy non sông thật thái bình,
Trai hiền bạn với gái đồng trinh .
Đời say men rượu thơm hoa rụng,
Tràn những thơ ngây, ngập cảm tình .

33.Ấy thế mà rồi cách biệt nhau,
Nhà Nhi không biết dọn đi đâu .
Mình tôi trời bắt làm thi sĩ,
Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu .

37.Bỏ lại vườn cam, bỏ mái tranh,
Tôi đi dan díu với kinh thành .
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới,
Chuốc mãi men say rượu ái tình .

41.Rượu ái tình kia thành thuốc độc,
Vườn trần theo bướm phấn hương bay .
Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc,
Hoa hết thơm rồi rượu hết say .

45.Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu,
Ba bốn năm rồi năm sáu năm .
Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại,
Men nồng gạo nếp nước hoa cam .

49.Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi,
Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi!
Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ,
Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi .

53.Chắc ở nơi nào dưới mái tranh,
Chị em Nhi vẫn sống yên lành .
Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán,
Hồn vẫn trong và mộng vẫn trinh .

57.Ngày xưa con bé Nhi còn đẹp ,
Huống nữa giờ Nhi đã đến thì .
Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ,
Cho người thiên hạ phải say Nhi .

61.Xóm chị em Nhi ở mấy nhà ?
Bến đò đông vắng ? Chợ gần xa ?
Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ ?
Vườn có trồng cam có nở hoa ?

65.Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng,
Thực ra có phải thế này không .
Chị Nhi đã lấy chồng năm trước,
Nhi đến năm sau lại lấy chồng ?

69.Ước gì trên bước đường lưu lạc,
Một buổi chiều nào lộng gió mưa,
Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ ,
Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa .

73.Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó,
Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu .
Nhắc lại ngày xưa mà thẹn lại ,
Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau .

77.Tôi kể: "U tôi đã mất rồi,
Cửa nhà còn có một mình tôi ..."
Nhi rằng: "Ngày trước u thường nói
Hai đứa mình trông đến đẹp đôi ..."

81."Chị em mới lấy chồng năm trước,
Chồng chị trồng cam ở mé sông .
Em ở mình đây nhà trống trải,
Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông ..."

85.Như truyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng **
Vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng .
Tôi với em Nhi kết vợ chồng .

89.Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo,
Say người thiên hạ lại say nhau .
Chiều chiều hai đứa sang thăm chị ,
Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu .

93.Chao ôi! Là mộng hay là thực ?
Là thực hay là mộng bấy lâu ?
Hai đứa sống bằng hoa với rượu,
Sống vào trời đất, sống cho nhau .

97.Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi,
Hoa thừa rượu ế, ấy tình tôi .
Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng ,
Gặp lại nhau chi muộn lắm rồi .

Huế 1941

FLEURS ET ALCOOL
NGUYỄN BÍNH
1.Il fait froid, ma mère recouvre la couverture ouatée
La vendeuse de l’alcool couve en plus des ferments
Sa sœur est trop petite, leurs parents sont décédés hâtivement
Elle enivre toute l’année les clients habitués

5.Sa petite sœur, ma chère, se nomme Nhi
Nous nous égarons en nous amusant toute la journée
Sa grande sœur vend de l’alcool quelques jours de marché
Et toujours achète pour tous deux les gourmandises

9.Nous deux profitant l’absence de sa sœur
L’imitons : Ramasser les fleurs tombées de l’oranger
Et les placer dans la marmite pour du parfum distiller

13.Bien que le parfum exhale ne pas plus
Tant pis! Nous deux le bâclons sur nos cheveux
Nous nous réjouissons d’avance : Il exhale bien!
Le parfum à la ville ne peut le comparer!

17.Uue soirée, chez Nhi on commémore le décès de son père
Sa sœur nous sollicite pour boire de l’alcool un peu piquant
Il parait que la petite tasse nous rend éméchés
Et nos deux figures devienent rougissantes

21.Nous nous ceinturons et dormons d’un bon sommeil
Ầ l’improviste nous pionçons jusqu’au matin
Sa sœur se gausse de nous affectueusement
Nous nous regardons en souriant hébétement

25.Sa sœur souvent plaisante avec ma mère
“Ils formeront un couple bien assorti!”
Et ma mère lui répond immédiatement
“J’aurai une brue pour m’aider aussitôt”

29.À cette époque notre pays était paisible
Le bon garçon se lie d’amitié avec la fille vierge
Le monde s’enivre d’alcool, s’exhalent les fleurs tombées
Partout plein de sympathie et de naiveté

33.Dès lors, nous nous sommes séparés
On ne sait où leur domicile s’est transféré
Et moi, Le Ciel m’oblige de devenir poète
Ma mère décéda n’ayant pas le temps à vieillir

37.Quittant l’orangerie et notre paillote
Je me lie profondément d’amour avec la capitale
Rêvant toujours aux fleurs fragrantes du séjour des fées
Et m’invitant autrui à boire de l’alcool de passion

41.Mais cet alcool d’amour ait devnu toxique
Le jardin du bas monde suit les papillons, pollen et senteur s’évaporent
Ma vie devienne désert, vrai désert
Les fleurs perdent leur fragrance, les papillons
Cessent de voltiger et l’alcool ne m’enivre plus!

45.Tristesse et humiliation je souffre moi même
Trois, quatre, puis cinq, six ans s’écoulaient
Je pleure en cachette chaque fois que je me remémore
À l’alcool ardent, au riz gluant et à l’eau de la fleur d’orange

49.C’est déjà trop loin et trop tard, ma chère
Et très, très honteux aussi, chère Nhi
Depuis quand tu quitta notre village ancient
Le beau rêve et la bonne chance me quittèrent aussi

53.Peut être à un endroit quelconque, sous la paillote
Ta sœur et toi mènent une vie paisible
Ta sœur distille de l’alcool pour tu le vends
Ton âme reste pure et ton rêve-vierge

57.Aurefois, encor fillette, tu étais charmante
D’autant plus, tu es déjà pubère maintenant
Chaque mois quelques séances de marché
Tu incite tant de gens à éprendre de toi

61.Le hameau où vous logez a combien de foyers?
L’ambarcadère est-il peuplé? Le marché est loin ou près?
Le logis que vous louez a-t-il un jardin?
Où on a planté des orangers? Fleurisssent-ils?

65.Un rêve frivole! Je pactise moi même
Est c’est vraiment çà? Est c’est que je me trompe?
Ta sœur s’est-elle mariée l’anné passée
Et l’année suivante, ce serait ta fois?

69.Je supposerais que sur le chemin d’aventure
Dans une soirée pleine d’intempéries
Je frapperais à une porte pour passer la nuit
Et sursauterais en entendant la voix de Nhi

73.À côté de l’alambic à cette soirée
Nhi m’a versé de l’alcool fraichement distillé
Recommérons aux jours passés, nous sentenant un peu honteux
Nous nous attendrissons et buvons ensemble

77..Je lui raconte que ma mère a décédé
Moi. je reste à la maison solitairement
Nhi dit ”Auparavant Maman souvent se plaisantait
Nous nous formeront un couple bien assorti”

81. Puis, “Ma sœur s’est mariée l’an passé
Son mari plante des orangers à côté du fleuve
Moi seule habite ici, la maison est très désolée
L’extétieur est plein de reflets de la lune et de vent

85.Tels que dans le conte Tương Như et Trác Thị
Qui se ramènent à s’installer au district Lâm Cùng
Le jardin printanỉer blanchit de fleurs d’orangers tombées
Je contracterais avec Nhi comme mari et femme

89.L’acool distillé est bon grâce au ferment bien couvert
Nous passionnons le monde et nous étichons nous même
Chaque soir nous víisitons notre sœur
Je cueulle des fléurs pour qu’elle garnisse la tête

93.Hélas! C’est l’illusion ou la vérité?
Depuis longtemps, c’est la vérirté ou l’isullion?
Nous nous vivons avec des fleurs et de l’alcool
Vivons sur la terre et sous le ciel, l’un pour l’autre

97.Mais c’est perdu de tout, tout est illusoire
Mon amour ressemble à la fleur superflue, à l’alcool à mévent
C’est déjà trop loin, le jardin aux ffleurs tombées
À quoi bon, se rencontrer de nouveau, c’est trop tard!

ЦВЕТЫ И ВОДКА
НГУЬЕН БИНЬ
1.Холодно уж, мать перекрывает ватное одеяло
Продавница водки укутывает фермент
Её сестра весма маленка, а родители ранно умерли
Она пьянит весь год всех знакомных покупателей

5.Её сестру, подружку мою, зовут Ньи
Весь день мы вместе неспешно играем
Старая сестра продает водку на базаре
Вегда не забудет нам двоим купить гостинцы

9.По случаю отсутствования сестры
Подражаем сестре : cобираем на саду осыпанные флёрдоранжи
И их сложить в котелок, чтоб выделять духи

13.Духи, хотя не так хорошо пахнут
Мы их побрыгаем на наши волосы
Радовая скажем сами : Как благоухающий!
Духи в городе-это чепуха!

17.Однажды у Ньи отмечали память отца
Её сестра нас вызывает пить водки едва острой
Кажется, что чашечка нам двоим краснела лицо
И ставила нас под хмельком

21.Мы обхатывали и долго спали
Без подготовки просыпали до утра
Сестра нас на смех поднимала
Мы смотрели друг на друга сумасбродно смеяли

25.Сестра часто шутит с моей матерью
“Они, производят впечатдление хорошей пары!”
Мать, cмеяь тотчас сказала как истина
“Я уж имею сноху, чтоб мне помогать!”

29.В эти времена наша Родина очинь мирная
Добрый парень пдружится с девственицой
Мир опаництся водкой, пахнут осыпанные цветы
Повсюду полно простодушнем и симпатией
33.Но затем мы быстро растади
Не знают куда семя Ньи переселилась
А меня Бог заставил быть поэтом
Мать нас покинула когда не явилась у неё седина

37.Отставил оранжерею, отставил хижину
Я ушёл с интымными отношениями с городом
Душистые цветы на раю всегда мечтал
Навлекаю винные дрожжи и любовную водку

41.Эта любимая водка стала ядом
Земный сад следил за улетыми бабочкими с пыьцой
Моя жизнь стала пустиной, истинной пустиной
Цеты прекратили пахуть, а водка не пьянит

45.Я одним переношу всё горе в жизни
Два, три года, затем пять, шесть лет протекли
Плачу тайно когда воспоминаю об всём
Крепком ферменте, клейком рисе, воде флёроранжа

49.Слишком далёко, слишкком поздно уже, Ньи
Очень смущаюсь, aх моя закадычная!
С тех пор, когда ты покинула нашу деревню
Добрая мечта счастливое обаяние
меня бросили также

53.Может быть, где-нибудь с простой хижиной
Живёте благоприятно ты с сестрой
Сестра перегоняет водку и ты её продаёшь
Душа твоя отстаётся доброй и мечта-девственной

57.В детском возрасте ты красива была
К тому же, теперь ты уже на выданье
Ежемесячно десяти базарных дней
Заставляешь многих в тебя влюбится

61.В посёлке, куда переселилась твоя семя
имеются сколько домов
Многолюдно ли причал, далёк ли рынок?
Дом конорый вы сниммали имеет ли сад?
На саду есть ли цветы апельсиновых деревьев?

65.Предуюсь пустым мечтам, лгу сам себя
На самом деле, если это правильно ли, что
Твоя cecтра вышла за муж в прошлом году
На следующий год настал твой очеред?

69.Предпологаясь на скитающом пути
В коем-то вечере полной непогодой
Постучав в дверь кого-то чтоб ночевать
Вздрогнул услышав голос оивета от Ньи

73.У перегонного аппарата в эту ночь
Она наливает мне первый дистиллат
Намоминаем л прошлом и смущимся
С душевной болей мы вместе выпьём

77.Я ей расдазал, что мать моя умерла
У нас отстался один только я
Она ответила : Раньше она часто говорила
“Оба мы составимся очеиь прекрасную пару”

81.”Cecтра ушла за муж в прошлом году
Муж сажает оранжевые деревья на берегу
Я одна живу здесь, дом очень опущенный
Вне ворот полно лунным светом и ветром”

85. Похожее на рассказ о Туонг Ньи и Чак Тхи (**)
Вместе переселят в дистрик Лам Кунг
Упавшенные алпельсиновые цветы белят сад
Мы с Ньи сочетаемся браком

89.Водка очень вкусна благодаря ферменту
Опьянают людей и опьяняем друг друга
Каждый вечер вместе посещаем сестру
Муж рвёт цветы и их жене прикаливает к волосам

93.Увы! Это мечта или действенность?
Дейсственность или Мечта долгого времени?
Мы живём благодаря цветам и водке
Живём взаимно под небом и на земле

97.Но это только грёза! Только иллюзия!
Лишние цветы, залежная водка-это моя любовь
Слишком далёк старый сад, где падали флёрдоранжи
Зачем вновь встречаться, уже слишком позно!
--------------------------------
(**)Талантливый поэт и красивая вдова в династии Tây Hán,
Китаи

NGUYỄN CHÂN phỏng dịch 09.12.2016
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

Dịch thơ: Nguyễn Chân

            CHỢ TẾT
                    ĐOÀN VĂN CỪ



Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.

Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.


Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.



LE MARCHÉ DU TÊT

(LE JOUR AVANT LA VEILLE DU NOUVEL ANS LUNAIRE)

ĐOÀN VĂN CỪ

Les nues blanches rougissent peu à peu au sommet des monts

Les brumes bleuâtres couvrent la crêtre des paillotes

Sur le chemin à la lisière du mont vert

Les villageois des hameaux joyeusement vont au marché du Têt

Ils marchent en files sur les herbes vertes

Les enfants aux chemises rouges trottinent autour

Quelques vieillards appuyant sur leurs bâtons marchent en  se courbant

Les filles aux couvre-seins rouges cachent leurs lèvres en souriant

Le petit enfant se tapit au sein de sa maman

Deux hommes portant par fléau les pourceax marchent à la tête de la foule

Le jaune bovin curieusement les poursuit



Les rosées tombent du bout des branches telles les gouttes de lait

Les rayons rouges du soleil dansent dans les rizières

Les montagnes se fléchissent dans leurs tuniques vertes

Les collines appliquent du carmin sous les rayons de l’aurore

Les vendeurs et acheteurs entrent et sortent  de la porte du marché

Le buffle reste immobile en simulant, les yeux mi-clos

Pour écouter le client qui parle à haute voix

Le vendeur des imageries populaires porte ses produits dans deux grands paniers

Cherchant l’endroit où il y a beaucoup de gens pour les vendre

Un étudiant pauvre se courbe sur l’étal

Meulant de l’encre chinois pour écrire les vers de printemps

Le vieux lettré s’arrête, tripote sa barbe en lisant

les sentences parallèles à voix basse



La vieille femme aux cheveux blanchis par le temps

 Vend ses marchandises près du vieux pagodon

Le vendeur d’objets votifs en papier au turban brun

Arrange ses articles sur la natte

La tunique du maire est tirée par la foule

Se distend aussi son turban enroulé sur la tête

Les enfants s’absorbent à contempler les imageries de poule

et poussins

N’entendant pas les appels de leurs sœurs à côté du chemin

Quelques filles s’entrelaçant dans leurs bras se tordent de rire

À côté du vendeur de pétards sous le banian

Le pannier plat est plein d’oranges rouges tels enduits de carmin

Le panier de riz gluant s’entasse comme mont de neige

Un coq à la crête rouge foncée tel du sang congelé

L’acheteur prend ses pattes, le renversant pour l’admirer



Le marché est animé comme çà jusqu’au crépuscule

Quand parviennent les sons de cloche de la pagode

Sur les chemins conduisant aux agglomérations désolées

Les campagnards en files successives rentrent à leurs maisons

Les éclats du soleil couchant se trainent sur les herbes

Les feuilles tombêes du banian s’éparpillent sur la place du marché.



БАЗАРНЫЙ ДЕНЬ ПЕРЕД ТЕТ

(ПОСЛЕДНЫЙ ДЕНЬ ПРЕД НОВЫМ ГОДОМ

ПО ЛУННОВOМУ КАЛЕНДАРЮ)

ДОАН ВАН КЫ

Полоса белого облака постепенно краснеет на вершине гор

Красно-голубой туман прижимает вершины хижин

На белой опушке зелённого холма

Жители посолков оживленно идут на базар Тêта

Они весело толпами идут на зелёной траве

Малчики в красной рубашке бегут вокруг

Несколько стариков на палках шагают согнувши

Девушки на красном лифчике. заcлонясь рукой рот, тихо смеются

Ребёнок прижимает на груди матери

Два крестьянина, нося свои свиньи, бегут впереди

Жёлтая корова забавно их преследует



Белая роса падает с вершины ветви как капли молока

Лиловый солнечный луч как танцует над рисовом поле

Горы крутятcя в зелённой тунике

Холмы краснеют красмином под лучами утренной зари

Продавцы и купатели проталкиваются на вороте базара

Буйвол притвораясь и слипаться глаза как спит

Чтоб слышать покупателей, что громко говорят

Продавец лубоков носит коромысло с двумями

коробами

Ищя где много людей, чтобы продавать их продукты

Бедный студент сгибается на стол

Истерает китайский тушь и старательно пишет вешние стихи

Учредитель китайских иероглифов остатовив, гладя свою бороду

 Читает про себя неслоьео красных парных изречений



Старушка c белой  шевелюрой продаёт свои продукты рядом со старым храмом

Призводитель обрядовых предметов из бумаги с бурым

тюрбаном

Раставляет свои продукты на цыновке

Толпа тащит тунику селской головы

Распускается  назвязанный тюрбан на голове тоже

Малчики смотрят рисунки наседку и её цыплят

Забывая призывы своих сестёр

Несолько девушек  обнимаяcь хохотают до упаду

Рядом с продавца петард под баньяном

Корзины полные красными как кармин алпельсинами

Корзины клейского риса видны как снежные горы

Петуха с красном гребешком как сгуток крови

Купатель возмёт лапы их, опрокидывая его чтоб расмотреть



Рынок так оживлен до почти полночи

Когда доносится звучание колокола пагоды

На пути проводящие на далёкие сёла

Деревенские жители толпами возвращаются

Жёлтые лучи солнца протягиваются на траве

Листья бананы разорённо падали вокруг лавочек



      NGUYỄN CHÂN phỏng dịch 03.01.2017
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

Dịch giả:Nguyễn Chân

  CHINH PHỤ NGÂM

ĐẶNG TRẦN CÔN-ĐOÀN THI ĐIÊM

1.Thuở Trời Đắt nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?



PLAINTES ĐE LA FEMME DU GUERRIER

ĐẶNG TRẦN CÔN-ĐOÀN THỊ ĐIỂM

1.À l’époque, quand le pays est agité de troubles

Les femmes supportent tant de difficultés

Une question au Créateur profondément en haut

Cette situation actuelle, qui a causée?



ЖАЛОБЫ ЖЕНЫ БОЙЦА

ДАНГ ЧАН КОН-ДОАН ТХИ ДЬЕМ

1.В эпохе, когда страна встрахивается беспорядками

Женшины выдерживают много трудностей

Cпрашивают Бога на высоком-предвысоком месте

Кто имено возбуждает это положение?



5.Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây

Chín tầng gươm báu trao tay

Nửa đêm truyền hịch, định ngày xuất chinh



5.Le tambour sur le rampart secoue le clair de lune

Les fumées du Palais couvrent les amas de nuages

L’Empereur confie la glaive au Сommandant d’Аrmée

Et proclame l’Аppel à celui-ci

En décidant le jour de partir au front



5.Барабан на крепости встрахивает лунный свет

Дымы над Дворцем затёмнают скопления облаков

Король передал свой меч Коммандиру Армией

В полночи выпустил Воззвание к ему

Определив день вступления в поход



9.Nước thanh bình ba trăm năm cũ

Áo nhung trao quan vũ từ đây

Sự trời sớm giục đường mây

Phép công là trọng, niềm tây sá nào



9.Notre pays était paisble durant trois centenaires

Désormais on remet au Сommandant la tenue de guerre

Dieu a suscité ce chemin de destinée

Le devoir envers la Patrie est plus important que les sentiments personnels



9.Cтрана наша была в мире через три столетия

С сих пор мундир передали Военачальнику

Бог уже поторопил его отправится в путь

Долг перед Родиной важнее личного чувства



13.Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn

Buổi tiễn đưa long bận thê noa

Bóng cờ, tiếng trống xa xa

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng



13.Sur le chemin qu’on poursuit, l’arc et les flèches sur le dos

Au mоmеnt de conduite, on pense à sa famille

Flotte l’étendart, résonne le tambour de loin

L’affliction monte au sommet du défilé, la haîne sort de la porte



13.На дороге на фронт дуга и стрелы на спине

Думaют о своей фамилии на разлуке

Развевается флаг, cлышны дальные звуки барабанов

Скорбь поднялась на вершину перевала, злоба вышла из

комнаты



17.Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt

Xếp bút nghiên theo việc đao cung

Thành liền mong tiến bệ rồng

Thước gươm đã quyết, chăng dung giặc trời



17.Le jeune gens est descendant des héros

Laisse à part ses études pour suivre les métiers des armes

Et désỉre dédier les remparts à l’Empereur

En décidant de ne pas incriminer les envahisseurs



17.Юноша исходит из выдающейcя фамилии

Оставил свою учёбу, чтоб служить армии

Желает посвятить крепости Королю

Решительно не миловать захвачиков



21.Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vị ào ào gió thu (*)                       



21.Pour l’homme cadavre dans la peau du cheval (*)

Sacrifie sa vie comme jeter une plume

Quitte sa famille pour endosser un manteau de guerre

Et sort au Pont Vi prenant part à la bataille

                                 ---------------------

                            (*) Auparavant, parfois pour les morts en bataille, n’ayant pas de

                           cercueils pour les enterrer, on les gainait dans les peaux des chevaux



                                   21.Воль мужчины : легче трупa в коже лошади (*)


Eму жертвовать собой как бросить пёрышко

Oдевает мундир, oставив фамилию

Стегая коня на Мост Ви учасnвует в бою



                                    -----------------------

                                   (*)Раньше, иногда для упаавших в войне, не было гробов для

                                   порохоны, трупы их положили в коже лощадей



            NGUYỄN CHÂN trích dịch-EXTRAIT-ЦЫТАТЫ



Giải thích :

(1) Dặm nghìn da ngựa-có giải thích phần tiếng Pháp ở bên trên

(2) Thái Sơn là một ngọn núi lớn ở Trung Quốc, ở đây vì như tính

mệnh của mình.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

    VIEIL  AMOUR

Vingt quatre années auparavant,

Une nuit ou déferlaient et la pluie et le vent,

Sous une lampe pâle,dans un petit compartiment,

Deux jeunes têtes approchées lamentaient en soupirant;



“Oh!Notre amour réciproque est toujours formidable,

Pourtant,nous ne pouvons pas nous marier !

De ca, triste conséquence:d’abord ,amour;après, rupture!

C’est pourquoi:mieux vaut nous séparer tôt!



Oh!mais tellement ingrats sont ces mots!

Aurons –nous le coeur de nous quitter l’un l’autre?

Aimons-nous donc passionnément tant que possible,

Tout simplement,c’est parce que le Ciel nous force à supporter ce supplice!

Nous ne sommes qu’amants,mais non époux,

Pour parler de la fidélité éternelle”

                     *

                  *    *

Vingt quatre années après,

Nous nous rencontrons par hasard à l’étranger,

Une paire de têtes aux cheveux tout blancs.

Si ce n’étaient pas vieilles connaissances,

Je parie:nous serions incapables de nous reconnaitre!?


Ce n’est que revision de l’histoire.

Déjà nous nous avons reconduit l’un l’autre,en nous quittant des yeux,

Tandis que nous nous suivons encore,encore,.. les yeux troublés!...



               Poème TÌNH GIÀ  de PHAN KHÔI

        Traduction de TRỊNH PHÚC NGUYÊN


TÌNH GIÀ

(Phan Khôi)



Hai mươi bốn năm xưa,        

một đêm vừa gió lại vừa mưa,

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,        

hai cái đầu xanh kề nhau than thở;



- "Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,        

mà lấy nhau hẳn đà không đặng:

Để đến nỗi tình trước phụ sau,         

chi bằng sớm liệu mà buông nhau!"



- "Hay nói mới bạc làm sao chớ!        

buông nhau làm sao cho nỡ?

Thương được chừng nào hay chừng ấy,        

chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!

Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng,        

mà tính chuyên thuỷ chung!"





             *



Hai mươi bốn năm sau,        

tình cờ  đất khách gặp nhau:

Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,        

đố có nhìn ra được?

Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,        

con mắt còn có đuôi.



1932





Bài thơ này đăng trên tờ Phụ nữ tân văn số 122 ra ngày 10-3-1932 trong bài viết Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Đây là bài thơ khởi xướng đánh dấu sự ra đời của phong trào Thơ mới.





OLD LOVE

(Poem by Phan Khôi - Translation by TMCS)



One night of twenty four years ago,

When it was windy and rainy,

A young man and a young lady,

Shoulder to shoulder

In a small chamber,

And in the dim light of a lamp

Lamented together

Over their love.  

   

“As the saying often goes: What a terrible disloyalty!

But in all sincerity, how  can we live separately !

As passionately as possible, we love each other,

However so God decides our destiny.

We are only lovers but not spouses

Therefore how can we talk about fidelity!”



Twenty four years passed,

Our hairs have turned grey.

We meet  each with other unexpectedly
In a very far-off area,

We can recognise each other easily

Because we have been so familiar.

Now we recall together the old days only.

Seeing each other off, we say good-bye

With our last lingering look at the time.



VÃNG TÌNH                             TÌNH GIÀ

(Phan Khôi thi- TMCS dịch)   (Thơ Phan Khôi- TMCS dịch)



Chấp tứ niên tiền phong vũ dạ             Đêm mưa gió hăm bốn năm trước

Hôn đăng quang hạ tiểu phòng trung Dưới ánh đèn mờ, trong phòng nhỏ.

Thanh thanh đầu phát tha môn lưỡng Hai người họ, đầu tóc còn xanh mướt

Tương thán ái tình, đồng cảm thông  Than thở về tình yêu, chung cảm thông



“Ô hô! tương ái thử thâm hậu    “Chao ôi! yêu nhau sâu nặng đến thế

Cha lưỡng bất năng tương kết hôn  Chúng mình không thể lấy nhau !

Tương ái diệc như tương phụ bạc    Yêu nhau mà cũng như phụ bạc nhau

Bất như trù hoạch tảo tương phân”    Chẳng thà lo liệu sớm lìa nhau.”



“Thường viết  ái tình hà thử bạc     Thường nói tình yêu sao mà bạc vậy !

Sinh li  cha lưỡng  chẩm cam tâm  Đôi ta nào sao nỡ lìa nhau khi sống.

Cha môn tướng ái đáo cùng tận Chúng mình sẽ yêu nhau đến cùng tân

Duyên phận cao thiên như thử phân Số phận  Giời cao đã phân chia như vậy !



Tình nhân vị kết thành phu phụ             Tình nhân chưa kết thành vợ chồng

Vô  cố tương đàm  thuỷ dữ chung”   Chẳng có cớ gì bàn thuỷ với chung.”



Ngẫu nhiên chấp nhất niên chi hậu  Tình cờ hai mươi mốt năm sau

Viễn xứ tương phùng thái diệu kì    Nơi xa gặp nhau thật kì lạ

Cha lưỡng song đầu đô bạch phát Hai ta đôi mái đầu đều bạc

Tình vô thâm hậu chẩm tương tri.  Tình ko sâu nặng sao mà nhận ra được.



Duy ôn  cố sự nhiên từ biệt     Chỉ nói chuyện cũ  rồi từ biệt

Nhãn ánh tương quan  bất dục  li…Ánh mắt nhìn nhau chẳng muốn rời
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

Thân mến gửi các bạn thơ yêu quý.

          Tôi viết bài thơ NGHĨ VỀ CÕI BIẾC, sau khi đi viếng tang hai bạn thơ lớn tuổi (tuổi 93 và 91.). Ban Trịnh Phúc Nguyên cảm xúc và viết bài thơ bằng tiếng Pháp gửi cho tôi (ENSEMBLE NOUS PENSONS AU MONDE BLEU ET PROFOND). Tôi rất xúc động nên viết bài thơ tiếng Pháp sau đây tặng lại anh Nguyên. Xin kính gửi các bạn thơ cùng đọc. Rất thân kính,

                                                                 PHAN HOÀNG MẠNH (Ngày 29-3-2017)


    NGHĨ VỀ CÕI BIẾC

                Sau khi viếng tang hai bạn

                    Đỗ Thị Thận và Chu Giao


          Vừa mới tiễn đưa hai bạn già về Cõi,

          Đêm bâng khuâng suy nghĩ chuyện đất trời…

          Từ thuở chôn nhau, được sống kiếp người

          Có trí tuệ, du hành trong cõi thế…



          Tuổi đã chín hai, cuộc đời dâu bể,

          Giữ vẹn trung trinh với sông núi cỏ cây.

          Chỉ hạt cát thôi, nhưng nhiệt huyết luôn đầy,

          Tâm nóng hổi với tiền đồ nước Việt…



          Trước linh cữu, đứng cúi đầu tiễn biệt

          Bạn nằm kia trong hương khói lung linh…

          Đã hiểu lâu rồi quy luật tử sinh,

          Vẫn xao động, ngậm ngùi, nhớ tiếc…



          Rồi đến ngày ta bay về cõi biếc,

          Trong lễ tang. đông bạn đến chào ta,

          Con cháu đứng quanh, mắt lệ thẫn thờ,

          Ta sẽ ra đi nhẹ nhàng về Chốn Ấy…



          Chắc vẫn nhớ đất trần gian để lại,

          Nhưng tâm hồn thanh thản lúc ra đi.

          Vượt tuổi chín mươi, nào còn vấn vương gì?

          Chào các bạn, mắt ta cười vĩnh biệt…

       

                       Ngày 23-3-2017
                  PHAN HOÀNG MẠNH


         ENSEMBLE,NOUS PENSONS AU

             ”MONDE BLEU PROFOND”

      A mon ami PHAN HOÀNG MẠNH

J’ai lu ton poème”Vers le monde bleu profond”,

Je me sens aussi le coeur troublé,l’esprit pensif,

Toi et moi,venons de reconduire notre soeur-poète,*

Tu n’as”que” quatre-vingt douze ans,

Tandis que moi,”déjà” quatre vingt quatorze’..

Comme toi,je médite mélancoliquement,

Presque toute ma vie,de tout mon corps et âme,

J’ai servi notre Patrie,dans l’armée,

Bons et mauvais souvenirs de la vie militaire j’ai conservé,

J’ai l’esprit calme et l’âme tranquille en tant que retraité,

Que le reste de ma vie soit long ou raccourci,

Toujours optimiste,je ne me sens jamais isolé!

Vieillissons donc toujours en beauté!

“Vieillir en beauté”,c’est vivre avec l’espoir,

Etre content de soi en se couchant le soir,

Et lorsque viendra le moment d’aller au”monde bleu profond”,

C’est le moment de ne recevoir,

Se dire”qu’au fond,ce n’est qu’un au-revoir…”


*l’institutrice-poétesse Đỗ Thị Thận


          Hanoi le 27/Mars/2017

           TRÌNH PHÚC NGUYÊN


     OUI, CE NE SERA QU’UN AUREVOIR

           RÉPONSE À MON AMI TRỊNH PHÚC NGUYÊN

      Bien remué mon cher, de recevoir ta lettre,

      Ta communion émue, ton poème sincère.

      C’est pour nous un bonheur de voir ainsi renaître

      Notre coeur combattant pour notre chérie terre.


      Dépasser quatre-vingts et vieillir en beauté,

      Garder l’âme fraîche le long de la vieillesse,

      Composer des poèmes dans sa longévité.

      Et toujours optimiste comme dans la jeunesse.


     Nous avons toute la vie servi de tout le coeur

     La grande cause sacrée de la chère Patrie.

     Aspirer pour le peuple un avenir meilleur

     Et vieillir guilleret, enivré de poésie.


     “Et un jour, s’en aller sans trop causer d’alarmes” (*)

     Les adieux de nos proches, c’est beaucoup recevoir.

     Dire à nos chers enfants:” Ne versez pas de larmes!”

     Et agiter sa main. Ce n’est qu’un aurevoir!


(*) Poème de François Fabié


              Hà Nội 29/3/2017                                 
          PHAN HOÀNG MẠNH
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

Dịch bài: GIAO THỪA THUỶ TIÊN HOA KHAI
NGẪU ĐẮC ( Kỳ 1)

Dịch ra tiếng Việt:

HOA THUỶ TIÊN NỞ LÚC GIAO THỪA
NGẪU NHIÊN LÀM. (KỲ 1)

Thân này ở Hải Đảo, Bồng Lai
Có sao đội tuyết giậu này nở hoa
Nhà nghèo không có lịch mà
Nên tin vui báo xuân đà sắp sang.

En Français:

LES NARCISSES QUI FLEURISSENT AU NOUVEL AN
(Impromptu poétique)

Vivant à Hải Đảo, Bồng Lai
Pourquoi tu fleuris sur la haie, sous la neige.
Aux gens pauvres qui n’ont pas de calendrier
Tu viens pour annoncer l’arrivée du Printemps.

HOA THUỶ TIÊN NỞ LÚC GIAO THỪA
NGẪU NHIÊN LÀM (Kỳ 2)

Phong nhã, thanh tao, cốt cách mà
Trong như sương, thanh đạm như hoa.
Thương là chưa thoát vòng tình ái
Với cõi trần, năm tháng thiết tha.

En français:

LES NARCISSES QUI FLEURISSENT AU NOUVEL AN
(Impromptu poétique)

Elégant et raffiné c’ est leur maintien.
Pures comme la rosée, raffinées comme les fleurs
d’ abricotier.
C’ est pitié qu’ elles ne peuvent pas se détacher de l’ amour.
Sur le monde terrestre, elles reviennent chaque année..

            Le 16 Janvier 2018
 Traduit par Phùng Thị Hồng Vân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hongvan28

   BƠI VÀO ĐI,VÀNG ƠI!
                Hoàng Hải Lý

Bơi vào đi, Vàng ơi, tao về đây
Đừng ra xa, thân thể mày bé lắm
Sóng thì to, nước biển kia rất mặn
Mày cứ bơi ra, tao sao thể cầm lòng...
Bơi vào đi, Vàng ơi, có nghe không
Mày quyến luyến làm lòng tao chợn sóng
Đại dương mênh mông, thân thể mày bé bỏng
Cứ ngước về tàu, sao tao thể cách xa...
Bơi vào đi, Vàng ơi, quay lại nhà
Tao phải về thôi bởi đã xong nghĩa vụ
Và tao biết đêm qua mày mất ngủ
Cứ liếm tay tao, sợ trốn mày về.
Đừng vậy nữa mà, Vàng ơi, tao thương quá
Thương những đêm tao và mày đứng gác
Gió bão từng cơn mày vẫn không sai khác
Phủ phục canh me bọn cướp biển chực chờ.
Về đi mày, đừng bơi nữa, tao nhờ
Tao xin lỗi, bởi đã xong nghĩa vụ
Và tao biết chừng ấy vẫn chưa đủ
Nhưng phải vào bờ, anh em khác ra thay.
Về đi mày,
đừng bơi nữa,
mắt cay...

Dịch ra thơ Pháp: Trịnh Phúc Nguyên 95 tuổi.


La revue Jeunesse présente aux lecteurs le poème ci-joint, une combinaison merveilleuse Poésie-Photographie:
Ile Trường Sa, et le poème qui”brule”les yeux de beaucoup de monde”

NAGES DE RETOUR AU RIVAGE, O VÀNG!

Nages de retour au rivage, o Vang chéri chiot, me voici de retour,
Ne nages pas au large, ton corps est si petit,
La mer est houleuse, l’eau de mer est très salée,
Tu vas toujours au loin, que ne puis-je me retenir.
Nages de retour au rivage, o Vang,ne m’entends-tu pas?
Tu m’affectionnes tant à faire troubler mon coeur,
La mer est immense, ton corps est chétif,
Tu tournes toujours tes yeux au bateau,
Comment pourrais-je m’éloigner de toi!
Nages de retour vers l’ile, ton domicile,
Je dois rentrer car j’ai accompli mon devoir,
Et je sais bien que la nuit d’hier, tu n’as pas dormi.
Léchant, léchant sans cesse ma main,
De peur que je m’esquive à ton insu,
Ne fais pas encor tout ca, o Vang,
Que je m’apitoie tellement sur toi!
Je me souviens des nuits où toi et moi étions en garde,
Déferlaient des rafales de tempête,tu restait indifferent
Nous nous étions en embuscade, attendant les pirates marins;
Retournes chez toi o Vang, je t’en prie!
Pardonnes moi, car j’ai achevé ma mission,
Et je sais bien que tout cela encore ne suffit pas,
Mais je dois rentrer, autres camarades me remplaceront,
Retournes donc, Vang
Ne nages plus au loin!
Mes yeux “brulent”…

Poème”BƠI VÀO ĐI, VÀNG ƠI”
de Hoàng Hải Lý,poète
Traduction de Trịnh Phúc Nguyên
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 98 trang (973 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [94] [95] [96] [97] [98] ›Trang sau »Trang cuối