Hỡi ôi!
Nợ nước thù nhà,
Tình em nghĩa chị,
Lằn tên đạn chuyển rung trời đất;
Quyết ra tay trừ sạch lũ tham tàn;
Chéo yếm khăn đùm, bao bọc non sông,
Dầu thất bại cũng nên trang nghĩa khí,
Nhớ hai Bà xưa:
Một gái kiên trinh,
Dáng người hùng vĩ,
Trên tay đủ lối côn quyền;
Trong bụng chứa đầy mưu trí;
Dòng dõi vốn Rồng Tiên xuất thế; sanh nhằm cửa Trương Công.
Lứa đôi nhờ tơ nguyệt xe duyên, gá nghĩa cùng chàng Thi Thị;
Tình chồng vợ là tình tấm mắn, chỉ non thề biển, cùng nhau chọn chữ xướng tuỳ.
Nghĩa chị em là nghĩa thịt xương, tạc đá ghi vàng giữ dạ vẹn niềm chung thuỷ.

Giận Tô Định làm quan Thái thú, đã tham lam còn giết kẻ thế cô.
Thương Nam Giao là cõi ly minh, có văn hoá mà để người chiếm trị.
Cờ nương tử theo chiều gió phất, bốn phương hào kiệt về chật đất Mê Linh.
Trống tướng quân lẫn tiếng trời gần, muôn đội tỳ hưu, đóng quanh vòng Giao Chỉ.
Chiếm địa thế lập nên đồ trận; đông có mầy, tây có tao.
Xem thiên thơ chưa định cõi bờ; Nam của ngộ, Bắc của nị.

Đánh một trận như ngói tan trúc chẻ, đống xương vô định chất bằng đầu.
Giữ ba năm có thành vững ao bền, giọt máu đồng cừu hăng sửa chí.
Cỏ để lúa, cá trôi về biển thẳm, hãi hùng xô đành nhục mất linh oai.
Đông chuyển mưa, nước chảy đến non Đoài, khủng khiếp Hán kíp điều thêm tướng sĩ.
Lão Mã Viện xưng là quắc thước; kéo binh sang từ Hiệp Phố đến Trường Sa.
Chúa Bình Khôi thiệt cũng anh tài, giúp chị đánh với Lưu Long cùng Đoàn Chí.

Trận thứ nhất, nơi hồ Lảng Bạc, trường đua tranh dễ nhượng sức quân Ngô.

Trận thứ nhì, ở suối Cẩm Khê, bề tấn thối khó như cờ nước bí.
Cơ trời khiển sao chịu vậy, mất cũng như còn.
Vận nước xuôi thế thì thôi; thới rồi lại bỉ.
Sức yếu phải toan tìm chước, sông Hát Giang ngọc đắm hương chìm.

Khí thiêng khi đã về thần, cõi Cù Việt tre nêu lụa ký;
Ôi! Thôi! Thôi
Gió thổi cơn sầu,
Mưa tuôn hạt luỵ,
Mái dinh hư quay mãi không ngừng,
Xe tạo hoá đưa hoài cũng nghỉ.
Mở nghiệp nước, trước nối theo Hồng Lạc, mau hay lâu, suy hay thạnh nhi nữ cũng xem thường.

Dựng ngôi vua, sau tiếp có Đinh, Lê, mạnh hay yếu, nên hay thua anh hùng nào dám ví;
Một tay hai bà gây dựng, thâu Lĩnh Nam hơn sáu chục huyện thành.
Muôn thuở nước thơm tho, trải thương hải đã hai mươi thế kỷ.
Hồn tráng liệt dựa nương hăm mấy triệu, lào lào như bóng thỏ vừng ô.
Khôi tinh anh tỏ rạng một phương trời, chói chói với cung Lê điện Lý.
Khí tiết tài non vòi vọi, bao vòng theo núi Tam Điệp, núi Tản, núi Kim;
Tiếng tăm như sóng đùng đùng, tràn khắp cả sông Cửu Long, sông Hương, sông Nhị;

Lễ kỷ niệm tháng hai, mùng sáu, lửa hương nghi ngút, vái van cùng Đất Việt Trời Nam

Giúp đồng bào học một hay mười, xiêm áo rỡ ràng theo dòng dõi với thầy Âu bạn Mỹ.

Than ôi!
Thượng hưởng!


Bài văn tế này đoạt giải nhất văn chương báo Phụ nữ tân văn năm 1934, nhận dịp kỷ niệm ngày giỗ Hai Bà Trưng.