15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Sơ Đường
3 bài trả lời: 3 bản dịch
1 người thích
Từ khoá: kiếm (7)

Đăng bởi Vanachi vào 01/12/2007 09:04

古劍篇

君不見
昆吾鐵冶飛炎煙,
紅光紫氣俱赫然。
良工鍛煉凡幾年,
鑄得寶劍名龍泉。
龍泉顏色如霜雪,
良工咨嗟嘆奇絕。
琉璃玉匣吐蓮花,
錯鏤金環映明月。
正逢天下無風塵,
幸得周防君子身。
精光黯黯青蛇色,
文章片片綠龜鱗。
非直接交遊俠子,
亦曾親近英雄人。
何言中路遭棄捐,
零落飄淪古獄邊。
雖復沉埋無所用,
猶能夜夜氣衝天。

 

Cổ kiếm thiên

Quân bất kiến:
Côn Ngô thiết dã phi viêm yên,
Hồng quang tử khí câu hách nhiên.
Lương công đoàn luyện phàm kỷ niên,
Chú đắc bảo kiếm danh Long Tuyền.
Long Tuyền nhan sắc như sương tuyết,
Lương công ta tư thán kỳ tuyệt.
Lưu ly ngọc hạp thổ liên hoa,
Thác lũ kim hoàn sinh minh nguyệt.
Chính phùng thiên hạ vô phong trần,
Hạnh đắc dụng phòng quân tử thân.
Tinh quang ảm ảm thanh xà sắc,
Văn chương phiến phiến lục quy lân.
Phi trực kết giao du hiệp tử,
Diệc tằng thân cận anh hùng nhân.
Hà ngôn trung lộ tao khí quyên,
Linh lạc phiêu linh cổ ngục biên.
Tuy phục trầm mai vô sở dụng,
Do năng dạ dạ khí xung thiên.


Quách Nguyên Chấn (Tân Đường thư chép là Quách Chấn, đây theo Cựu Đường thư) là người Quý huyện thuộc Tử Châu, thiên tư hùng mại. Năm 18 tuổi (có sách chép là 16 tuổi) thi đậu thái học sinh (tiến sĩ), ra làm huyện uý Thông Tuyền, xử đoán công việc ngang tàng hào hiệp, không câu nệ theo tiểu tiết pháp luật. Vũ hậu biết được, triệu về hạch hỏi. Đến khi trò chuyện, thấy là người lạ, bèn hỏi tới văn chương trước tác lúc bình nhật, Nguyên Chấn dâng bài thơ này.

Vũ hậu xem xong rất khen ngợi, truyền đưa cho bọn học sĩ Lý Kiều đọc. Từ đó Nguyên Chấn bắt đầu được trọng dụng, dần làm tới Tể tướng (Thượng thư bộ Lại), kế ra làm Đại tổng quản quân Sóc phương rồi về triều làm Thượng thư bộ Binh, oai danh lừng lẫy. Thời Đường Minh Hoàng, được phong là Đại quốc công, sau có lỗi bị giáng, kế được phục chức Tư mã rồi chết. Về sau Đỗ Phủ qua ngang nhà cũ của Quách, có làm thơ rằng:
Tráng công lâm sự đoán,
Cố bộ thế hoành lạc.
Cao vịnh Bảo kiếm thiên,
Thần giao phó minh mạc.

(Hào hùng gặp việc không câu nệ,
Ngoái lại vết xưa thầm gạt lệ.
Cao giọng ngâm bài Bảo kiếm ca,
U minh kết giao cảm tri kỷ.)
Về câu “Thần giao phó minh mạc” trong bài Quá Đại công cố trạch trên đây, Đường thi kỷ sự chú rằng: Nguyên Chấn có hai câu thơ rất hay là “Cửu thú nhân thiên lão, Trường chinh mã thiểu phì” (Người già năm viễn thú, Ngựa ốm lối trường chinh). Tương truyền Nguyên Chấn ngụ trong núi, đêm thấy một người mặt to như cái mâm hiện ra dưới đèn bèn viết hai câu thơ nói trên vào trán, người ấy biến mất. Hôm sau xuất hành, thấy một cây to có vết như cái vành tai, hai câu thơ ghi ở chỗ ấy, mới biết là quỷ thần tới nghe thơ!

Mặc dù đường công danh cũng gặp nhiều chuyện không may, Quách Nguyên Chấn vẫn có một kết cục nhìn chung khá trọn vẹn. Song được dùng thì làm quan, không được dùng thì giữ chí, người ấy đã hiện ra qua thơ ấy rồi. Bài Cổ kiếm ca với hai câu “Nếu chẳng kết giao cùng hiệp khách, Cũng từng thân cận với anh hùng” đã cho thấy một tài thức hào mại hơn đời, và với hai câu cuối “Tuy bị vùi chôn chẳng được dùng, Đêm đêm khí vẫn xông trời đất” thì một thiên tư cứng cỏi không chịu khuất phục nghịch cảnh đã hiển hiện. Cho nên thân làm Tể tướng, tước tới quốc công, vào triều ra trấn lừng lẫy tiếng tăm, trở thành bậc danh thần một thời, cũng có gì là lạ đâu?

(Trích Cao Tự Thanh, Giai thoại thơ Đường)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Cao Tự Thanh

Anh chẳng thấy:
Sắt tốt Côn Ngô bay khói nóng,
Ánh hồng hơi tía đều rát bỏng.
Thợ hay rèn luyện mấy năm liền,
Đúc được kiếm báu tên Long Tuyền.
Long Tuyền màu sắc như sương tuyết,
Thợ hay tấm tắc khen kỳ tuyệt.
Bao ngọc lưu ly nảy hoa sen,
Khâu vàng chạm trổ sáng ánh nguyệt.
Gặp khi thiên hạ lặng phong trần,
May được quân tử dùng phòng thân.
Thân rắn sống xanh màu lóng lánh,
Văn rùa lưỡi chớp vảy linh lung.
Nếu chẳng kết giao cùng hiệp khách,
Cũng từng thân cận với anh hùng.
Sao nói giữa chừng bị bỏ vứt,
Rơi rụng phiêu linh cạnh ngục thất.
Tuy bị vùi chôn chẳng được dùng,
Đêm đêm khí vẫn xông trời đất.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Bạn thấy chăng:
Thép nung vùng Côn Ngô khói toả
Dù tía hồng vẫn đỏ liền liền
Thợ nghề rèn đúc nhiều niên
Mới xong kiếm báu đặt tên Long Tuyền
Màu sắc kiếm Long Tuyền sương tuyết
Ai cũng khen trác tuyệt lạ kỳ
Vỏ sen cẩn ngọc lưu ly
Vòng vàng lấp lánh thầm thì dưới trăng
Gặp chính lúc yên không giặc giã
May được dùng quân tử phòng thân
Lưỡi mang đậm sắc rắn xanh
Chuôi nhiều vẩy tựa rùa xanh mai ngà
Không được bạn với nhà hào hiệp
Cũng làm thân với khách anh hùng
Ai đồn bị bỏ giữa đường?
Hoặc là bị lấp vùi trong ngục tù?
Thân này vùi lấp cho dù
Đêm đêm khí kiếm vẫn đu tới trời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Anh chẳng thấy:
Sắt Côn Ngô luyện sùi khói nóng
Khói tía lửa hồng rát bỏng thân
Thợ giỏi rèn trui nhiều năm tháng
Long Tuyền bảo kiếm mới lưu danh
Long Tuyền sắc ánh như sương tuyết
Thợ giỏi xuýt xoa: tuyệt kiếm thành!
Ngọc khắc đài sen làm vỏ kiếm
Quai vàng loé ánh tận trăng ngàn

Phải thời thiên hạ dứt phong trần
May gặp anh tài giắt phòng thân
Lấp lánh tinh quang màu rắn lục
Vảy rùa óng ánh áng thơ văn
Nếu chẳng kết giao cùng hiệp khách
Cũng từng thân cận với hùng anh

Hà cớ giữa đàng đành vứt bỏ
Nổi trôi phiêu dạt chốn ngục trung
Dẫu đời quên lãng không dùng đến
Khí vẫn lừng trời mỗi đêm đông

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Trả lời