Thuận Đức niên hiệu

1. Vận trung nguyên lấy năm Canh Tý
Tiết tiểu hàn vừa thuở đông thiên.
(Thập nhị nguyệt thượng tuần)
Hợi cung sửa việc cầm quyền,
Nhưng sửa một trận mới yên bốn bề.
5. Lộ lộ bóng thỏ nghiêng kề,
Chiêng vàng ló thấy vừa khi mặt rồng.
Tản lửa giăng che Thái Ất
Thuở tay xe nhật phù lên,
Lậu lậu ngọ chính đương thiên,
10. Rạng soi thế giới sơn xuyên xa gần.
Vẹn nhà trạch ấm đượm nhuần,
Nghiêng thùng rượu cúc đòi tuần mời khuyên.
Hợp bạn hiền những người tri kỷ,
Mở đồ xem luận lý xưa nay,
15. Những câu châu báu là hay,
Bằng dao chẻ nước bấy nay khôn tìm.
Vàng ấy cao giá dư ngàn,
Càng nhìn, càng thắm càng in càng màu.
Nếm mùi đạo gẫm lâu mới biết,
20. Tạc công lòng mở tiết mở không.
Ai hoà học được thần kinh
Ắt là gặp lối thánh minh tuần này.
Thánh hiền chén chuốc rượu say,
Nước vui bàng bạc vỗ tay reo cười.
25. Lại xem thấy sự đời thượng cổ,
Lạc Long Quân là tổ nước ta,
Sửa sang bốn bể gần xa,
Làm vua Nam Việt khắp hoà đâu đâu.
Tuổi già hưởng được sang giàu,
30. Ngàn năm sức khoẻ trị lâu, ngôi dài.
Giản biên nói chưng đời ngoài
Kỷ luân chính thống mới kề từ Đinh.
Tiên Hoàng tuổi còn phù sinh
Cờ lau tập trận dụng binh giữa đồng.
35. Ứng điềm từ thuở sang sông,
Ngang sông cao ngự hoàng long thuỵ lành.
Thiên thư đã định rành rành,
Mộc sơn đồng chữ tập tành nên câu:

Mộc căn đạp đạp,
40. Mộc biểu thanh thanh,
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông A nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung hiện nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất nguyệt gian
Thiên hạ thái bình”

Một câu là một hữu tình
50. Đời đời nước có điềm lành đế vương
Ra tay vỗ trị bốn phương
Đời đời nước có đế vương ở trời.
Hoà đao mộc lạc Lê dân
Thập bát từ thành họ Lý đổi thay.
55. Đông A nhập địa Trần danh,
Họ Trần từ đế đời tay Chiêu Hoàng
Trên ngôi vẹn nghiệp Đào Đường,
Giúp tay rủ áo âu vàng đặt an.
Đất Lam sơn vua Lê Thái Tổ,
60. Thiên giúp uy cây cỏ dụng binh,
Ấy là kỳ mộc tái sinh,
Ra tay giíp lại đế kinh vẹn toàn.
Sửa sang tám cõi đều an,
Man di củng phục bể thuyền non cao.
65. Sự lạ thay chấn cung hiện nhật,
Bên đông phương giữa đất Cổ Trai
Thái tử bửu vị lên ngôi,
Thần kinh thoắt lại năm đời thánh minh.

Lại nói “Đoài cung ẩn tinh
70. Tây đô Trịnh thị đặc danh tướng tài.
Tướng tinh về ẩn phương đoài,
Tây đô chốn ấy tượng trời định vi.
Quỷ ma chật vật đổi dời.
Bây giờ thiên hạ xem ngày bằng đêm.
75. Ngồi thấy những sương nghiêm tuyết lạnh
Loài cừ khôi cậy mạnh hung hăng.
Đua nhau làm sự bất bằng
Giết người lấy của nhung nhăng đã buồn.
Khoe khoang sức mạnh tài khôn,
80. Nào hay nhân nghĩa nào còn ái ân.
Chí toan mưu độc hại nhân.
Trên đầu chẳng hổ trời thần phủ che.
Những xưng xe phù Lê diệt Mạc
Cái oan gia người khác giết nhau.
85. Nào ai đã nhịn ai đâu,
Thuỷ chiến, bộ chiến mặc dầu sắm sanh.
Đêm ngày tập trận dụng binh,
Làm cho thiên hạ thương sanh hối lầm.
Chưa từng thấy cổ kim sự lạ,
90. Một đứa man giá hoạ muôn dân,
Cưu toan lòng độc dữ muôn phân.
Đua nhau quái độc muôn dân từ này.
Trăm họ ai chẳng chau mày,
Anh hùng ai chẳng cau mày lăng xăng.

95. Thư đường nhân thuở ngoài hiên,
Chép làm một tập để làm mai ngay.
Tân vị thoáng ấy năm nay.
Truyền lên mây đã che rày về đông.
Nhật cung đoài khuyết giao long,
100. Năm hồ thuyền dạng (rạng?) khảm cung tịnh đồng.

Sấm ran tự bắc chí đông,
Đà giang nam mộc dưới dòng Nam kha.
Giang nam chốn ấy Vĩnh Gia,
Đà giang chốn ấy tên là Vĩnh Giang.
105. Côn sơn phủ đá thạch sàng ở trên.
Sau đền núi mọc bày ngang,
Bảy mươi hai núi ở liền,
Giang nam là chốn thánh hiền tiên cung.
Ứng binh sửa trụ làm song,
110. Lò niên lọc thánh liễu trong ai ngờ.
Nối đời vương đế phen xưa,
Đường Ngu tam đại còn chờ đến nay.
Nho, Đạo, Thích cũng biết hay.
Học lấy trường học để nay anh dùng.
115. Ước gặp ông Lữ Thái công,
Cùng Trương Tử Phòng rạng che.
Giả làm thầy Sãi ông nghè,
Kẻ tôn người báng thị phi chẳng thường.
Dân quê chẳng biết đế vương,
120. Báng kia sàm nọ vua đâu đến mình.
Mặc ai ký ký quyền hành,
Miễn người đắc chi xin xin vui vầy.
Gặp thời, gặp thế, gặp người
Trời cho mới biết được hay sự tình.
125. Trung thu vọng nguyệt đêm thanh.
Ngưỡng lên trông thấy đẩu tinh giữa trời.
Bảng vàng chói chói các bày,
Kim ngưu, Hoàng lận ở ngoài âm cung.
Trương đà tự bắc chí đông,
130. Cõi bờ vức vức phò không làu làu.
Nhiệm trao nhân thế biết đâu,
Nhân dân quý tiện nguồn sâu khôn dò.
Nhĩ hà nước chảy quanh co,
Tưởng rằng chốn ấy cố đô hoàng bào.
135. Muôn dân thiên hạ khát khao,
Cá cạn gặp nước ai nào chẳng mong.
Từ ông Phật tử dạy ra,
Hoàng giang chốn ấy ai từng bảo ai.
Tào Khê chốn ấy chẳng xa,
140. Ai ai đến đấy thực là đế vương.
Đến nơi thực biết tỏ tường
Tả biên bạch hạc thuỷ trường ức muôn.
Hũu biên tam đỉnh ngôi sơn
Ngàn oanh nước chảy áp đường mái sau.
145. Đại Lương số số chư hầu,
Vào ra ấp Vệ thánh quân giúp đời.
Tân quận khởi những mậu dần
Răn bảo người thế giữ thân cho lành.
Ngu dân chẳng biết sự tình,
150. Ngóng trông nào biết thánh quân đâu là.

Gặp thời có tuổi tác già,
Cũng tìm cho đến quốc gia giúp dùng.
Chu môn vinh hiển cao phong,
Muôn đời con cháu nối dòng cân đai.
155. Từ ngu chớ lấy xem chơi,
Dầu ai biết được gặp đời thánh minh.
Biết thời chẳng khá lộ trần.
Thánh ra trị nước, trị dân, trị đời.

Đại Minh, An Nam triều hội.
160. Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thòi tiết khai hoa.
Nghi đáo ngưu đầu quá mã.
Hồ binh bát vạn hồi gia.

Thi vân:
Một áng mây che quáng giữa trời,
165. Nhìn xem đàn trẻ đánh nhau chơi.
Chờ thấy thầy tăng ra mới được,
Bấy giờ Bạch xỉ mới ra đời.

Thi vân:
Ngũ thập tam đoài bách mộc khô,
Nguyệt tân ám thố tảo thành đô.
170. Song thiên thạnh mỹ sơn hà uế,
Nhất sĩ nghi hồ nhật nguyệt vô.

Thị vân:
Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu tự đông chinh.
Bửu giang thiên tử xuất,
175. Bất chiến tự nhiên thành.

Thi vân:
Thiên khí thương thương địa khí hoành,
Nguyễn gia sinh đắc nhất nam lang.
Quốc quân thời chính thiên hạ định,
Nhất tịch thạnh sàng lập kỷ cương.

180. Giang thái thuỷ hồng đa tài tật,
Lục nguyệt huỳnh hoặc tại sửu phương.
Lão viên mẫm ngữ ca:
Bổ thượng thi vân:
Ba góc ruộng, bốn người cày
185. Ngươi hãy cày, ta mạ tranh.
Chữ thiên cơ trời tỏ định,
Đến câu lục thất thị thái bình.

Vận nay minh chính tiết lành,
Thấy trong sấm ký tập tành nên câu.
190. Một câu là một nhiệm màu,
Anh hùng gẫm được mới hầu đứng cao.
Trải khắp sao che mây Thái Ất,
Thuở tây cung xe nhật phò lên,
Việt Nam khởi tổ gây nền
195. Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
Một thời là một nhiễu nhương hằng lề.
Vua Đinh Tiên Hoàng trong đời cửu ngũ
Mở bảng rủ áo chắp tay
200. Lê đao bỗng liền lại sinh.

Chấn cung nhật xuất đoài cung khoẻ phò.
Khôn chống trường thành bền cho.
Đoài cung vẻ rạng rừng thu,
Ra tay mở lấy đế đô vẹn toàn.
205. Toà cửu thiên ám vừng hồng nhật
Dưới liền trên ăn vứt nhằm chân.
Sửa sang muôn việc cầm quyền.
Nằm nhưng ai dễ nhận giúp cho
Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
210. Mặc quần hùng phong úng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian,
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài.
Áo vàng mặc kẻ bỉ bai
Khi xui đắp núi khi sai mở đường.
215. Lấy độ điền làm công thiên hạ
Cậy mão nên đất nẻ cạn mòn
Con thơ ong óng tranh khôn
Vô già mở hội, Độc tôn mở chùa.
Cơ trời xem đã che mùa
220. Đã đô lại muốn mở đô cho người.
Ấy trời ý hẳn lòng bất nhẫn
Suốt muôn dân cưu hận cưu hàn
Dưới trên dốc trí lo toan
Những đua bán tước bán quan làm giàu.
225. Lại rủ nhau làm mồi phú quý,
Mấy đấng hiền có chí an dân,
Đua nhau làm sự bất nhân,
Đã tuần biển nước lại tuần đầu non.
Quốc đồ chia rẽ càn khôn,
230. Mối giềng man mác làm buồn lòng nhau.

Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai suy
Sự làm thất thế lôi thôi,
Lệnh ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ.
235. Xem tượng trời đã như ra trước
Còn hung hăng bạo ngược chẳng xa.
Gió cuồng cả sớm liền đêm
Còn đờn cửu khúc còn thi ngự đề
Ấy Tần hoàng hôn mê bất biết
240. Để muôn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật những đi
Âm binh ở giữa nào thì biết cho
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
245. Đêm ngày xem vững chiêm bao
Nào ai còn có ước ao thái bình
Một góc thành lao xao chúng quỷ
Đều một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương bời bời hồng trần
250. Làng kinh củi lửa, làng phân điếm tuần.

Quen vốn những suất dân làm bạo
Khu đòi loài cáo quỷ tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
255. Lợn khôn lạc dấu khôn về
Mèo con chi khắp tiêu về quỷ dương
Chân dê đầu khỉ leo tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
Nội thành chốn chốn hư kinh
260. Đầu khỉ leo thành tin sứ đã sang.
Rẽ mậu dần Bắc giang tái mã
Trong hai xuân bỗng phá tổ long,
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
265. Gà đâu gáy sớm bên tường
Chẳng yêu thì quái bất tường chẳng không.
Thuỷ binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh bát ngát như ong kéo hàng
Đứng hiên ngang đố ai biết trước
270. Ấy Bắc binh sang việc dĩ chi chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đòi nay

Chưa từng thấy đời nào sự lạ
Bỗng khiến người vu hoạ cho dân
275. Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng bảo dân cày bừa.
Đã nên dại Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra buôn bán nó ăn
Xưng xe mong khắp đôi quân
280. Chẳng ngờ thiên ý xoay vần đã công
Máy tạo hoá nặng tay dễ nói
Lòng báo thù ai dễ sửa ngôi
Thung thăng ban bổng đạo trời
Phù Lê diệt Mạc cắt dời quân ra
285. Cát lầm bốn bể can qua
Anh thì chẳng được hoá ra lại về
Còn hùng quân nổi đầy khe
Kẻ xưng cứu khổ người khoe trị đời
Bấy giờ Lê bấy khó thôi
290. Quỷ ma chật vật biết trời là đâu?

Thương những kẻ ăn rau ăn quả
Gặp nước nguy con cái cậy đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu,
Tìm non có chốn chưng sau mới toàn
295. Chê những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Vậy cho phải truỵ trầm luân
Ai khôn mới được an thân đời này.
Nói cho biết khảm cung rồng dấy
300. Đấng anh hùng gẫm lấy mới ngoan.

Sấm rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan thánh tài
Hễ nhân doãn ai về đất cũ
Thì phụ nguyên mới lũ binh ra

305. Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng ong dậy điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng quy khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

310. Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới rạng trong
Lồ lộ râu rồng đầu có chữ vương
Trỗ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu ấy lượng Cao Quang ấy tài
315. Xem thiên ý có lòng sinh thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Soạn đẩu tinh sanh vị sao
Cả dùng chưng phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
320. Có ông Bạch sĩ điều hoà sáng mai

Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết xem coi tỏ tường
Đời này thánh phục vi vương
Đô kiêm đạo đức văn chương trong mình
325. Uy nghi dạng mạo dị hình
Thác cư một dải kim tinh phương đoài
Đêm ngày tinh nhuệ dưỡng nuôi
Ẩn cư sĩ mới ra tài giúp dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
330. Thiên văn địa lý kinh luân càng mầu

Lọ là phải mượn tài đâu
Mới biết vân sắc thức âu long thành
Thánh nhân ở có thuỵ tinh
Quân thần đã định chiền mình chớ tham
335. Lại khuyên đấng chí nam hào
Chớ say sưa tham trọng tham lòng
Học cho biết lẽ kiết hung
Biết phương hướng hội chớ nhằm lầm chi.
Hễ trời sinh xuống tế tài
340. Bất kỳ nhi ngộ màng gì tưởng trông
Chê những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một thí hư không
Ví dù có gặp ngư ông
Chài đâu mà vải nên công mà hòng
345. Xin khuyên đấng hiền trung quân tử
Hãy mang lòng trung nghĩa cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thiên văn độn giáp trong mình cho hay
Văn thì luyện tỏ bày quyết thắng
350. Trương Tử Phòng, Gia Cát Khổng Minh

Võ thời thông yên thuỷ, thần kinh
Thời vào trận chiến mới lành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết lay tay bẽm miệng nói không
355. Ngõ mai gặp hội mây rồng
Công danh lừng lẫy chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ cho đến phải ngược xuôi nhọc mình
Nặng lòng thật có vĩ kinh
360. Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời ứng mấy vì sao
Tỏ sinh hiền thánh anh hào đòi nơi

Nước Nam vua có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai cho tường
365. Đành mấy lời để tàng kim quỷ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là có chí biết lo chiền mình
Xem đoài cung đến ngày bất tạo
370. Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau.
(Ngôn hổ tướng tàn ngược, quốc gia bại loạn tại vu thử thủ dã, nhất vu Thân niên Thân nguyệt Thân nhật Thân thời, vĩ tinh xuất thân phương, thiên hạ đại loạn dã)

Coi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân.
(Ngôn xuất lâm hiếm xứ, nội hữu thiên thời, địa lợi, nhân hoà, khả dĩ ẩn thân dã. Nhất vân Thái Nguyên, sơn đổng trù ngạn nhất hiểm dã; Vị Khê sinh thánh, nhị hiểm dã; Đoài phương tịnh thất khu hiệu phục man đắc tam hiểm dã)

Lấy con mang mệnh tướng quân
Ngữ oai đã dậy, ngữ nhân đã nhường
(Ngôn chung dụng tiểu nhân bị tái phong hầu, dĩ phòng thất sách dĩ thử phá lỗ dã)
375. Hãy lấy gương U vương thuở trước
Loạn bởi chưng tham ngược bất nhân
Bốn phương ong khởi rần rần
Mông sinh tam phủ mang quân dấy loàn.
(Mạc thị loạn thế cử binh phục thù, tam đạo đồng tiến cố dã)
Man mác một đỉnh Hoành Sơn
380. Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù.
(Ngôn Nguyễn thị tái cử binh phục thù)
Ý những thù binh thảy thảy
Lòng trời xui ai biết tân cho?
Phá điền đầu khỉ cuối thu
Ải binh mới tới thập thò liền sang
(Ngôn thân niên đông nguyệt, Bắc binh thướng mã xuất tái tam đạo đồng tiến)
385. Lộ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vả lại thêm hung hiểm mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù tối om
(Ngôn thân tiết tứ phương binh khởi giai bị hoả tai gia tận khởi thiêu tận tuyệt giả)
Trông thấy những sương nghiêm tuyết lạnh
390. Loài bất bình cậy mạnh hung hăng
Thành gia cá, lửa tưng bừng
Kẻ xuôi Đông Hải người chừng sơn Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ chìm đầy sông
395. Song thu lạnh tiết hồng trí dã
Nỗi đàn dê tranh phá càng ghê
(Ngôn quần hùng khởi binh trí chiến dã)
Đua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ thì bị sửa hung hoang
400. Kẻ thì binh hoả chiến trường chết oan

Kẻ thì người thửa hung tàn
Kẻ thì bị của đa mang khốn mình.
(Ngôn Hợi niên thiên hạ đại loạn, tử giả thập phần tồn nhất)
Chuột nhâm dựng tổ cắn quàng
Điều thì làm bá xuất binh
(Ngôn Nhâm Tý thập tính xưng vi tứ sứ quân, nam phương hữu tứ, bắc phương hữu nhị, tây phương hữu tam xưng vi trưởng quân dã)
405. Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh tối ngày
Bể xoi cá phải đội cây
Đất bằng núi phẳng cát bay bụi mù
Nào ai đã dễ nhịn thua
410. Thuỷ chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây khô lá héo đòi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hoà bảo thân

415. Đoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa nào phần hại ai
Tìm cho biết chốn biềt nơi
Thái nguyên một giải góc nơi trụ đình
(Ngôn sơn động kỵ phong khả dĩ dung thân)
Bốn bề núi đá vây đoanh
420. Một đường tiểu mạch nương mình ấy an
(Ngôn Thái Nguyên đa sơn diệc hiểm, Tản Lĩnh khả dĩ dung thân bảo toàn)

Thấy Đông Nam nhiều phen giặc dậy
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc phương mới thật đế kinh
Mình chưa dễ giấu, giấu danh được nào
425. Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho biết chốn mới vào thần cơ
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Đều một lòng tranh chiến đua nhau.
Muôn dân chịu thửa âu sầu
430. Kể từ đôi ngũ mới hầu yên cho
Cấy cày tua đợi được mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai.
(Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành)
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền quân nậu chẳng nài thêm lương
435. Xem tượng trời biết lành đời trị
Gẫm thế nào họ Lý xưa nên
Giòng nhà bát đấu còn truyền
Gẫm xem tứ bửu nả khen đời đời
(Ngôn Lý thị viên tinh thành khỉ kỳ hậu đắc đạo, thu đồng chú An Nam tự khí dĩ vi bửu đồ giả dã)
Thần long cơ nổ ở trời
440. Cho làm thần khí giúp nơi trị trường
(Ngôn quá Cổ Loa đắc thử thần khí)

441. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang đã ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy
(Ngôn Nguyễn thị sinh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ)
Phụ nguyên ấy thực ở miền Tào khê
445. Có thầy Nhân thập đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
(Ngôn thiên sinh Ngọ tuế, tôn vi sư phó chi vị nhậm trọng kinh dinh dĩ thành vương nghiệp)

Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp muôn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều đỉnh hộ mai
450. Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân.

Lọ là phải nhọc cất quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
Giáp tý vẽ khuê tinh đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng bình hanh
455. Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thi ký tuý kẻ canh Hữu đài
Bản đồ chảng rốt cho ai
Ngàn nay lại lấy phục nay vẹn toàn.
(Ngôn cử binh phạt Bắc Hồ phục dẫn thể bản cựu)
Vững Hùng Vương cha truyền con nối
460. Duy muôn đời một mối xa thư

Bể tăm kình ngạc bằng tờ
Trăng đâu chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng xưa đặt khoẻ chân
Cương kỳ thế nước muôn xuân hưởng dài
(Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài)

465. Lại xem đứng làm trai quân tử
Xem kẻ đời biết giữ mới khôn,
Tìm cho biết bạn phương viên,
Mới mong có được gia môn vẹn toàn.
Thái sơ của chuốt dầy lên,
470. Dẫn khuyên đấng hiền kẻ có đầy khe.
Chớ nhầm phải bạn u mê,
Luống công ngày tháng có nghề chi đâu.
Lại dạy đấng trượng phu chí khí,
Tua thời lòng trung nghĩa thảo ngay.
475. Vàng bền gan sắt chớ khuây,
Mới nên đấng cả mai ngay anh hùng.

Phòng khi cơ biến mới hòng dậy nhau.
Xin chớ vội giàu sang mặt thấy.
Tua đợi thời lừng lẫy tướng khanh.
480. Trong lòng làu biết ám minh,
Ngàn năm bia tạc miếu linh còn thờ.
Làm người biết lo xa mới khá,
Chớ xem thường nữa hoạ đến thân,
Chọn người kẻ có tướng tăng,
485. Thử cho có phép biết chừng người sang.
Vàng toàn phải lấy lửa than,
Khôn ngoan thực có được nhân rượu nồng.
Mấy kẻ bao dung lượng rộng,
Càng rủ nhau ra chốn miếu đường
490. Chẳng như trí mọn tài thường,
Quen loài bạo ngược nói cường lấy hay.
Đến khi bấm miệng ra tay,
Xem tài cũng chẳng sánh tày ai đâu.
Biết lánh xa mới nên quý giá,
495. Mấy kẻ nên xem lạ khác vời.
Ngư ông là kẻ thuyền chài
Đã duyên lại lưới đã chài lại câu.
Sớm khuya đã có trí mưu,
Mói nên bộ tróc công thâu vẹn toàn.
500. Dang tay họp bạn hiền tri kỷ.

Tua sửa sang cương kỷ cho bền.
Thuốc thang phòng mãn đựa tiên,
Đã viên ngũ thánh lại viên lục thần.
(Xuất Thái Ất kinh lục thập tam quyển, trạch đắc Thiên nguyệt đức hướng bắc phương thiết đàn tế thiên địa thánh thần ngũ tướng các thần, luyện thiên thánh hoàn dĩ tẩy khí giới hựu sinh thập ác cửu xú nhật hướng bắc phương tế ngũ tướng, tái tự thiên thần, nhất hoàn dĩ tẩy khí giới khả dĩ miễn nhất thân chi nạn)

Can qua ai khá vệ thân,
505. Thiên văn, động giáp thâm phân chưa nhầm.
Tay làu biết thất cầm ngũ thánh,
Lòng lầu thông an thuỷ thần kinh.
Luyện chưng phép ấy cho tinh,
Gặp thời âu ắt nên danh phỉ nguyền.
510. Đời này sinh những người hiền,
Đó dùng dối trá có nên ích gì!
Lại khuyên kẻ tri cơ quân tử,
Chớ thấy thế ngại chí mà buồn.
Chớ nề bạch ốc chu môn,
515. Rồng mây cả hội dành còn về sau.
Hãy công nặng sức đèn dầu,
Hãy công kết nghĩa bạn theo người hiền.
Một mai ra gặp cơ duyên,
Quân thần cả nước bán thiên vui vầy.
520. Tâm truyền chép để cho hay

Suy gẫm mới biết sau này mặc ai
Lại nói sự tướng tài phụ tá
Ứng mỗi vì cửu toạ tam thai.
Đặt làm tứ trụ đầu ngôi
525. Bắc tam nam nhất trong đời dậy danh
(Tiên Du huyện, Núi Nguyên xã; Bảo Lục huyện, Phú Châu xã cư tại Tức Mặc xã; tính Trần. Đông Ngạn, Uy Nỗ xã, Thanh Trì huyện, Quang Liệt xã, tính Võ)
Kim Cang, Bát Bộ tướng tinh,
Đem binh ra sức chống thành Việt Nam.
Đồng thời Nguyễn thi, Nam Nghiêm,
Đào thời, Giang Việt, xã Hoàng Châu kim.
530. Lưu Lang, An Lão khác tìm (Tầm thường dã)

Chàng Chậu, Bạt Lộc ầm ầm dậy vang.
Thiên hương bay nức họ Lương,
Cấu Sanh, Lan Xá, đón chàng Võ Công.
(Đông Di huyện, Lộc Xá xã, Nguyễn; Nam Anh huyện, Hoàng Đồng xã, Nghiêm; An Việt huyện, An Giang xã, Đào; Kim Đồng huyện, Hoàng Vân xã, Chu; Lão An huyện, Lão An xã, Lưu; Bất Bạt huyện, Khang Bảo xã, cải Phùng thị; Thiên Bản huyện, Cao Hương xã, Lương; Thanh Lan huyện, Ca Xá xã, Võ)

Đến bốn bảy vị trong tinh tú,
535. Đôi mươi tám hiền phụ rập vai.
Giác nguyên sao trước rạng soi,
Lê nay Đông Vệ, Lương ngôi Nam Đường.
(Đông Sơn huyện, Đông Vệ xã, Lê; Nam Đường huyện, Nam Đường xã, Lương)

Gia tiên Phùng, Lý, Đào Dương,
Cơ, Tinh liền sánh mấy hàng Tĩnh, Nguy.
(Gia Lâm, Lý, Phùng nhị tính; Tiên Du, Đào, Dương nhị tính)
540. Họ Đoàn Chân Lũng cậy thời
Cầm quyền thủ tướng an bề Việt Nam
Ứng vị Sâm, An, Nghi nhị huyện
(An Lão xá, Nghi Dương huyện, Võ)
Mão nhật kê lương Võ Thuỷ dao
(Lương Võ huyện, Dao Thuỷ xã, Võ)
Hư Trương thái rạng đôi sao,
545. Cẩm Lương tài lạ ứng sao điều Trần
(Cảm Giang huyện, Trần; Lương Tài huyện, Trần)
Sao Giao, An Viễn họ Thân
(An Viễn huyện, An Viễn xã)
Khuê tinh giáng khách Tây Chân Nguyễn tài.
Hoàng cùng Nguyễn đôi người cỡi phụng
Sao Nữ Vỹ tương ứng Phàn Long
550. Nguy Chuỷ, Châu, Dực, Hoàng, Phòng
(Chuỷ, Dực: Hoàng thị, Châu thị nhị tính)

Đôi An, Đại Ý càng nồng càng ghê.
Lưu, Lê đều ứng Lâu, Đê,
Một quê Hữu Lũng, một quê Na Ngàn
(Ô Sơn huyện Hoàng Nguyễn; Ý Yên huyện đồng Hoàng; Đại Yên huyện: Phạm; Hữu Lũng huyện Lưu; Đông Ngạn Lê)

Tâm Nguyệt Cơ Thán Sơn họ Đặng,
555. Quỹ Kim dương thực đáng họ Vương
Thất Trư Trường Tân họ Hoàng
Từ Liêm họ Quách sao Cang.
Lưu Ngưu Na Ngạn, Bích Trừ, Chân Lưu.
Ứng vì sao Đẩu, chàng Châu Lương Tài
(Từ Liêm huyện, Đông Ngạn xã: Quách; Lương Tài, Đich Sứ xã: Châu, Đông Ngạn huyện: Lưu)

560. Sao nhiêu ứng Đẩu tinh liệt vị
Cấu tinh anh hùng khí tiền nhân.
Bầy ngôi phụ bật tướng quân,
Nguyễn Lưu Tiên ấp kinh luân mối giềng
Võ Châu còn ứng vượng phương,
565. Thán thời có Nguyễn cùng Đường Hoàng Lưu.
(Tiên Du huyện: Nguyễn; Thán Sơn: Nguyễn; Đường An huyện Tô Võ Châu)
Võ kia hai Võ tài ưu.
Đếu làm tướng suý giúp phò quốc gia.
(Linh Loại huyện, Võ; Võ Ninh huyện: Võ)
Trần Khiêm cùng Tư Trần là

Một quê Chân Định, một nhà Thanh Lan.
570. Dương Khúc đôi ứng môt đoàn
Lại khen chàng Nguyễn có trang trung thần.
(Nghi Dương huyện, Khúc Xuân xã: Nguyễn)
Đông Tây sao Đẩu xoay vần,
Nam Bắc tàm Lý Trần biệt mặc cố hương.
Một quê thời ở Quế Dương,
575. Một người ở lại miền Trương Hiệp Hoà
(Quế Dương huyện, Hoa Vi xã: Trần; Hiệp Hoà huyện, Quế Dương huyện, Kỳ Sơn xã: Lý)

Mỗi người đều ứng một toà,
Vệ triều Tử Phủ vào ra Cấm Đình.
Bảy mươi hai võ tộc tướng tinh,
Tiên Du nhiều tướng hiển vinh.
580. Trong làm tiền hậu, ngoài kinh trập trùng.
Đào tươi, Dưong tốt thực dòng,
Đôi Lưu, năm Nguyễn, hợp cùng sáu Lê.
Đôi gia đồng chủng một bề
Chuỷ tinh cùng ứng cùng đều giáng sinh.
585. Ra tay nguyệt phủng thiên kình,
Kẻ đành họ Lý, người đành họ Vương.
Đôi ngàn nhiều cũng khác thường,
Úng chưng thiên mã, kình dương mỗi vì.
Hoa Trương thị, Nguyễn Chấn Lê,
590. Sao Cơ họ Lý, sao Kim họ Bùi.

Thả Kim Lộc những tài lương đống,
Hai họ Trần đều chống cả hai.
(Kim Hoa huyện, Mỹ Lộc xã: Trần; La Lộc xã: Trần)

Thanh Đàn, Na ngạn, Thanh Oai
Lưu, Nghiêm, Nguyễn Phạm nên trai anh hùng.
595. U châu Nguyễn ứng Thiên Đồng,
Thiên Lương họ Võ ở dòng Võ Minh.
Thư Trì Phùng Đặng lưỡng khanh,
Ứng sao Thất Sát có tình Tham Lang.
Nguyễn Nam Tinh cùng Hoàng Dao Thuỷ,
600. Thiên Dũng Thế (Yên Dũng, Yên Thế) đôi phương là thường.

Nghi Dương xã Nguyễn Bùi Vương đắc,
Dương Lương Tạ Thanh Lan Lê Bùi.
Phụng Tiên, Hữu Lũng, Thiện Tài,
Phạm Chu Lý Nguyễn từng trai bày hàng.
605. Tướng Ngạn Sơn ngọ ngang càng lạ
Nguyễn danh công cùng Tạ danh công
Trường Tân sao ứng một dòng
Lê Trần đôi họ cùng thông một đoàn.
Từ Liêm, Hương Cát, Âu Lan.
610. Đón chàng Lê Nguyễn có gan mới bền.
Nội nhân diễn võ tương hiền,
Nguyễn miền ở Thẩm, Lê miền ở La.
Hữu tướng, phi tướng ai qua,
Ninh Đông có Phạm, Hợp Hoà có Lê
615. Sao Thiên Mã giáng sinh cấu khí
Độ nhị lang có chí ai qua.
Vác dao có Nguyễn vào ra,
An Lang họ Nguyễn, Nhạc là họ Lê
Lập Thạch cũng đấng hiền Lương
620. Linh tinh hạn thiệt Đào Lang chẳng ngờ.
Thiên Mã tướng tinh mãnh đạn
Thân Đắc Hán cùng Lý Quỳnh Khanh,
Võ thị họ Đào, Cẫm Giang Sơn Vi.
Lại có Trịnh Hoành các khanh,
625. Bấy nhiêu ứng sở vị tinh
Đều làm vương tá thánh minh phù trì.
Cùng nhau những tướng trí nho,
Gặp thời cũng được phong lưu sang giàu.
Ở nhưng chưa dễ nên đâu
630. Có đất, có phước mới hầu mong nên.
Dựa xem chép làm một thiên
Hậu sinh nghiệm trước mới sinh cơ trời.
Ấy lòng trời thái bình mới biết
Điềm tượng trời vốn đã đinh xưa.
635. Tình cờ chẳng phải tình cờ
Ngôi trời đã định lọ cầu thạch bi.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
(Tự Thìn niên thập nguyệt chí Tị niên tứ nguyệt)
Mã đề túc tận hưu binh
(Tự Ngọ niên lục nguyệt chí Mùi niên thập nhị nguyệt)
Nhất sĩ thị tri anh hùng tận,
640. Thân Dậu niên gian hưởng thái bình
(Thân niên nhị nguyệt, Dậu niên thập nguyệt)

Thi vân:
Ngũ thập tam đoài bách mộc khô,
Tân niên thố ám tảo thành đô
Song luân binh xuất sơn hà uế
Nhất thố nguy khai nhật nguyệt vô.

Thi vân:
645. Lưỡng mộc tương ma hoả tự sinh
Chi phân... đoạn khởi đao binh
Ngũ hồ đồng tính thiên nguyên khí
Biến thế nhân gian hưởng thái bình.

Thi vân:
Nhị tam điệt tác diệu thiên công,
650. Tứ hải du niên hỗn nhất đồng.
Nhật nguyệt kê minh thường xuất mão,
Thố trung ta ức phỉ tùng phong.

Thi vân:
Hoàng giang phún thuỷ tại nguyệt thành
Thuỳ thức thiên tâm dĩ triệu tường.
655. Tây lãnh... nhiên cao kỷ trượng
Khuyên võ kinh khẩu bất thương nhân.

Thi vân:
Thế thường lục thất nguyệt niên gian,
Bất tín tu cầu na sự khan
Thái nhĩ thiên tâm lương nghi
660. Khuynh quỳ xứ xứ cửu nhai hoan.
Huyền cơ thuỳ thức am minh trung
Chỉ phong nghiêm siêu nhân ý trung.
Chuyển vận tự văn đoài lạc địa
Tuần hoàn hựu kiến khảm cư cung

Hựu:
665. Hữu vô vô hữu thục đa đoan,
Bất tín tu cầu na sự khan.
Đông dĩ hướng khai tuỳ diệt tác
Tuần hoàn hựu kiến nhật tiền khan.

Thi vân:
Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương,
670. Thuỳ tri thánh đế tại hà phương.
Hiền nhân dục thức vi thần phụ
Bất tại man hương tại địch hương.
Nhất tự tam nhân đồng,
Nguyệt vô thuỷ vô hoả
675. Thử thánh nhân cho danh.

Hữu thi:
Giang đông ngạn thượng đản tầm thường
Bị khởi trần lăng tác đế vương.
Thiên hạ đô lai quy nhất thống
Thử niên xuất trị vĩnh diên trường.

Hữu thi:
680. Hoả hiền thố nhân thú mộc dương
Thị thánh nhân thuỷ cung long đức
Ẩn vi sơn tự phụng hoả thần,
Trư vận hưng vương thất
Niên gian lục thất tuần
685. Thế truyền thập lục diệp
Tộ lưu ngũ vạn xuân


Đây là bản do ông Trương Quang Gia (hậu duệ của Trương Đăng Quế, đỗ cao học Văn chương Việt Hán, Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, tùng sự tại phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hoá, mất năm 1996 tại Sài Gòn) phiên âm từ bản nôm Phùng thượng thư ký (còn gọi là Sấm Trạng Bùng) trong thư viện cụ nghè Nguyễn Văn Bân (1868-1937), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa Đinh Dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc Kỳ thượng nghị viện, Tổng đốc Hải Dương.

Mặc dù bài này do Phùng Khắc Khoan viết nhưng từ câu 188 cho đến 464 về cơ bản lại trùng với các bản Sở Cuồng và Mai Lĩnh của Sấm ký tương truyền do Nguyễn Bỉnh Khiêm viết. Các hàng chữ in nghiêng trong ngoặc là chú của tiền nhân đã ghi sẵn trong bản nôm khi chép.