乙丑中秋後和東芝氏感如雲歌兒在辰原韻

乍懷秋思感春心,
消渴相如五夜琴。
愁客酒杯難盡醉,
惱人詩句未成吟。
咿唔燕語鶯聲在,
信息魚箋雁影沈。
定是重陽佳節到,
新梅晚菊復相尋。

 

Ất Sửu trung thu hậu hoạ Đông Chi thị cảm Như Vân ca nhi tại thời nguyên vận

Sạ hoài thu tứ cảm xuân tâm,
Tiêu khát Tương Như ngũ dạ cầm.
Sầu khách tửu bôi nan tận tuý,
Não nhân thi cú vị thành ngâm.
Y ngô yến ngữ oanh thanh tại,
Tín tức ngư tiên nhạn ảnh trầm.
Định thị trùng dương giai tiết đáo,
Tân mai vãn cúc phục tương tầm.

 

Dịch nghĩa

Hơi thu mới chớm lòng xuân đã nhen nhúm
Chàng Tương Như đau bệnh, canh khuya gảy đàn
Người khách sầu muộn khó cạn chén say
Câu thơ buồn bã ngâm không thành tiếng
Yến oanh còn nghe như ríu rít đâu đây
Tin tức nào chẳng thấy tăm hơi
Phải chăng tiết trùng dương cũng đã tới
Lại tìm cành mai mới nở, khóm cúc buổi chiều


Lời tự: “Án sát Quảng Bình” 按察廣平 (Thơ làm trong thời kỳ làm án sát Quảng Bình).
Ất Sửu tức năm 1925.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh

Tình xuân nhen nhúm lúc thu qua
Canh muộn Tương Như gảy điệu ca
Ly rượu nhớ nhung chưa uống cạn
Câu thơ buồn bã chẳng ngâm nga
Còn vang tiếng ngọc lời oanh hót
Nào chút hơi tăm bóng nhạn sa
Gặp lúc trùng dương trời đẹp tới
Cúc mai tìm lại mấy cành hoa

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Hơi thu nhen nhúm mới lòng xuân,
Canh muộn Tương Như đàn gảy buồn.
Khách khó tan sầu say chén muộn,
Ngâm không thành tiếng giọng thơ buồn.
Còn nghe ríu rít lời oanh hót,
Nào thấy tăm hơi bóng nhạn thường.
Mai nở tìm cành chiều khóm cúc,
Phải chăng đã tới tiết trùng dương.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời