1994.38
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
1717 bài thơ, 131 bài dịch
4 bình luận
7 người thích
Tạo ngày 13/11/2008 09:53 bởi Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 28/12/2018 06:26 bởi tôn tiền tử
Nguyễn Lãm Thắng sinh ngày 14/8/1973, quê tại làng Tịnh Đông Tây (Hà Dục), xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, tốt nghiệp cử nhân văn - hoạ Trường ĐH Sư phạm Huế năm 1998, là giảng viên Khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, trưởng Gia đình Áo trắng Huế. Ngoài sử dụng tên Nguyễn Lãm Thắng làm bút danh, anh còn có các bút danh danh khác là Lãm Thắng, Lam Thuỵ và các bút danh viết cho thiếu nhi: Nguyễn Trần Bảo Nghi, Du Lãm, Nhật Quang...

Giải thưởng:
- Giải thưởng báo Mực tím (Gửi tới yêu thương) năm 2003
- Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2007

Có thơ đăng ở nhiều tạp chí trung ương và địa phương: Kiến thức ngày nay, Nhân dân, Sông Hương, Tuổi trẻ, Tài hoa trẻ, Áo trắng, Nữ sinh,…

 

  1. 12:38 AM 01/01/2017
  2. Á đù!
  3. A Sầu
  4. Ác mộng
  5. Ác mộng dài
  6. Ai cũng có công
  7. Amen
  8. An ủi
  9. Anh
  10. Anh bù nhìn
  11. Anh dế mèn
  12. Ảnh động
  13. Anh đưa tay mò con ốc bươu trong hang
  14. Anh lục tìm em trong màu gió biếc
  15. Ánh mắt
  16. Anh nếm mùi buổi sáng bằng đôi mắt em
  17. Anh phân biệt
  18. Ánh sáng là sự trần truồng của tiếng thở
  19. Ánh sáng tàu điện ngầm
  20. Anh ta châm điện
  21. Anh thận trọng sắp lại từng hơi thở
  22. Anh thích trà sữa
  23. Anh xe lu
  24. Áo mưa mỏng
  25. Ao sen cuối mùa
  26. Áo sờn đẫm mồ hôi
  27. Áo trắng mùa thu
  28. Ăn một miếng cơm
  29. Ăn ở ra răng hổng biết
  30. Âm
  31. Âm thanh mùa thu
  32. Âm thanh ngày
  33. Âm thanh trước tiếng gà gáy
  34. Ấy bỏ cả tiếng đồng hồ
  35. Ấy chết
  36. Ấy chỉ thích trẻ con cười hồn nhiên với mình
  37. Bà lão bán hột vịt lộn
  38. Bà nội vào bếp
  39. Bà và mẹ
  40. Bác chổi chà
  41. Bài cho xuân muộn
  42. Bài hát buồn của loài chim tổ rách
  43. Bài hát cho con
  44. Bài hát thầy dạy
  45. Bài hát trở về
  46. Bài học nho nhỏ
  47. Bài học vỡ lòng
  48. Bài thơ dâng thầy
  49. Bài vè hát chơi
  50. Bạn ảo
  51. Bản Iều
  52. Bản kiểm điểm cá nhân
  53. Bản năng khóc
  54. Bàn tay nhỏ
  55. Bạn trong vườn xanh
  56. Bánh tráng nướng
  57. Bão
  58. Bao La lạnh
  59. Bảo Lộc
  60. Bão quật
  61. Bày đặt
  62. Bay lên thế hệ trẻ Việt Nam
  63. Bay lên với gió
  64. Bắt gà
  65. Bậc thềm xưa
  66. Bâng khuâng sân trường cũ
  67. Bập bênh
  68. Bất chợt gặp giữa đường
  69. Bầu trời không đáy
  70. Bây chừ em đã hiểu chưa?
  71. Bé cưng
  72. Bé đã hiểu
  73. Bé hát karaoke
  74. Bé hỏi
  75. Bé là bé ngoan
  76. Bé làm bánh trứng
  77. Bé làm hoạ sĩ
  78. Bé ngoan
  79. Bé tắm biển
  80. Bé tự hiểu ra
  81. Bé và báo Nhi đồng
  82. Bé và em
  83. Bé vẽ
  84. Bét con mắt
  85. Bê con
  86. Bên bờ sông
  87. Bên cánh rừng khuya
  88. Bến câm
  89. Bên eo Nín Thở
  90. Bên góc chùa làng
  91. Bên góc thành cũ
  92. Bên này và bên kia
  93. Bên ngõ phế thành
  94. Bên ngoài cửa sổ
  95. Bên ngoài và bên trong
  96. Bến sông chiều
  97. Bên tê bên ni
  98. Bến xuân
  99. Bệnh
  100. Bệnh lý
  101. Bệnh nan y
  102. Bi chừ vẫn Huế
  103. Bi chừ xa xăm
  104. Bi kịch
  105. Bí mật của thủ môn
  106. Biển báo
  107. Biển gọi bình minh
  108. Biên Hoà đêm xa em
  109. Biên Hoà, đêm xa em
  110. Biến tấu hạnh phúc
  111. Biển thức
  112. Biết đâu
  113. Biết hợp sức lại
  114. Biệt khúc Mylee
  115. Bình minh có nhiều chiếc lá xanh rơi rụng
  116. Bò gặm cỏ xanh
  117. Bóc một lớp da xù xì trên cây cổ thụ
    1
  118. Bóng
  119. Bong bóng trôi lẩn quẩn phía góc trời không chân
  120. Bóng chiều tà
  121. Bóng đèn điện trong lồng chim
  122. Bóng đèn đường sáng trong đêm rồi tắt
  123. Bóng đèn trong lồng chim
  124. Bóng đêm
  125. Bóng khuya
  126. Bóng máu
  127. Bóng trăng kinh thành
  128. Bóng trưa
  129. Bốn mùa
  130. Bốn mùa hoa
  131. Bốn mùa mơ ước
  132. Bông hoa trên bãi biển
  133. Bông lúa nặng hạt
  134. Bơ vơ lạnh đến rùng mình
  135. Bởi họ học ở giảng đường GIII4
  136. Bụi
  137. Bụi đỏ làm nhoè dần bóng chị trên ruộng nắng
  138. Buộc
  139. Buổi chiều bên những ngôi mộ hoang
  140. Buổi chiều không ở lại
  141. Buổi chiều kinh rụng
  142. Buổi sáng bên hè
  143. Buổi sáng đông cứng
  144. Buổi sáng quê nội
  145. Buổi sáng trong rừng cũ
  146. Buổi sáng tự do
  147. Buổi sáng và những hột mưa đen
  148. Buổi sớm của bà
  149. Buổi tối rảnh rỗi xem phim ma cà rồng
  150. Buổi trưa ở làng
  151. Buổi trưa trên lăng Tự Đức
  152. Buổi trưa trong rừng cấm
  153. Buổi xa người
  154. Buồn đem xương thịt phơi bày
  155. Buồn không hở núi?
  156. Buồn như
  157. Búp măng
  158. Bức tranh ban trưa
  159. Bức tranh chiều thu
  160. Bức tranh của em
  161. Bừng giấc
  162. Bước chân con kiến
  163. Bước chân đầu tiên
  164. Bước gió
  165. Bước mùa
  166. Bướm xuân
  167. Cà dái dê
    1
  168. Ca dao
  169. Cà phê sớm
  170. Cà phê và ngó
  171. Cà phê xanh
  172. Cái bóng nặng gấp mấy lần thân xác
  173. Cái chết & sự thật
  174. Cái chết tồn tại trong ta
  175. Cái con chìa vôi
  176. Cái đầu với nhiều kiểu tóc
  177. Cái gạt tàn thuốc là cái tiểu sành
  178. Cái gì nghiêng?
  179. Cái hũ sành lủng đít
  180. Cái mặt [trời] méo xệch chui qua con hẻm ngập rác
  181. Cái nắng đi chơi
  182. Cái nhớ
  183. Cái nóng 38 độ
  184. Cái trống trường em
    2
  185. Cám dỗ
  186. Cảm giác
  187. Cảm ơn Huế
  188. Cảm thông
  189. Cạn đêm
  190. Cánh chim tụng ca tình yêu vĩnh cửu
  191. Cánh dơi
  192. Cánh đồng
  193. Canh rau dền rỏ máu
  194. Cánh thư anh gửi
  195. Cát
  196. Cắn nhau một cá rô đồng
  197. Căn phòng trọ
  198. Cắt từng phần thể xác
  199. Câm
  200. Cầm tay mùa thu
  201. Cậu bé mua vé số
  202. Câu hỏi
  203. Câu kinh rong chơi
  204. Câu lạc bộ Cây Cọ Nhí
  205. Câu nói của đứa bé mồ côi
  206. Câu nói của kẻ đang chết
  207. Cầu thang
  208. Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng
  209. Cây bàng trơ trụi
  210. Cây cau
  211. Cây gòn
  212. Cây ngô
  213. Cây sông
  214. Cây thảo nhơn
  215. Cây xanh
  216. Cây xoan
  217. Cha chết
  218. Cha nằm viện
  219. Chạm mưa mà nhớ
  220. Chán thiệt luôn
  221. Chảnh
  222. Chào ngày cũ
  223. Cháo nhuyễn tâm linh
  224. Chạp qua sông vắng
  225. Cháu hỏi
  226. Cháu vẽ
  227. Chảy hay trôi
  228. Chạy ngược từ ngã ba Ái Nghĩa
  229. Chạy qua miền ảo giác
  230. Chạy thể dục
  231. Chạy trong đêm giao thừa
  232. Cháy vào mắt xanh
  233. Chạy xe từ phố về làng
  234. Chăn nệm ấm áp
  235. Chăn trâu
  236. Chắp tay
  237. Chấm hết hoặc dừng tại đây
  238. Chân dung tự hoạ
  239. Chậu tắm
  240. Châu Thuỷ
  241. Chết
  242. Chí
  243. Chỉ trong đêm tối
  244. Chị và em
  245. Chia sẻ
  246. Chiếc bàn em học
  247. Chiếc bỉm hút nước đái con trẻ
  248. Chiếc khăn mùa đông
  249. Chiếc lồng bàn
  250. Chiếc mào sứt
  251. Chiếc mặt nạ
  252. Chiếc ô
  253. Chiếc răng hỏng
  254. Chiều cao nguyên
  255. Chiều chia tay nắng Hòn Chồng bên cây thảo nhơn
  256. Chiều cuối năm nhớ mẹ
  257. Chiều cuối năm, Huế mưa, nhậu một mình
    1
  258. Chiều Đá Đĩa
  259. Chiều đông đầy gió
  260. Chiều đồng nội
  261. Chiều đông xứ Huế
  262. Chiều Hương giang
  263. Chiều lạnh
  264. Chiều lệch mắt nâu
  265. Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ
  266. Chiều mưa Hà Nội anh nhớ em
  267. Chiều nghiêng
  268. Chiều ngó xa xăm
  269. Chiều qua phố cũ
  270. Chiều qua xóm cũ
  271. Chiều quê
  272. Chiều rỗng
  273. Chiều thu mưa
  274. Chiều thu nghe tiếng chim cu
  275. Chiều thu rất ngọt
  276. Chiều trên khư mộ
  277. Chiều trên non nước cũ
  278. Chiều trung du
  279. Chiều ven sông
  280. Chim sâu tập hót
  281. Cho bé
  282. Cho đời biếc xanh
  283. Cho mùa hạ cuối
  284. Cho mùa xuân rực rỡ
  285. Cho ngày sinh nhật 40
  286. Cho những ngày đông lạnh
  287. Choáng
  288. Chổi quét nhà
  289. Chợ mưa
  290. Chợ xuân
  291. Chơi vơi
  292. Chới với 2
  293. Chơi với sóng
  294. Chớm thu
  295. Chợt nghĩ giữa hoàng hôn
  296. Chợt rượu
  297. Chú chim sâu
  298. Chú gà trống nhỏ
  299. Chú nhện nâu
  300. Chú ở Trường Sa
  301. Chú thợ điện
  302. Chu Văn An - khung trời khát vọng
  303. Chú về phép
  304. Chú vịt con
  305. Chùm mây quằn quại
  306. Chúng ta nói về chúng ta
  307. Chuồn kim
  308. Chuồn kim mắc lưới
  309. Chút duyên quê
  310. Chuyển động thời gian
  311. Chuyến xe băng đêm lạnh
  312. Chuyến xe cuối năm
  313. Chuyến xe ký ức
  314. Chứng ngộ
  315. Co
  316. Có ai?
  317. Có cái chi trong cổ họng
  318. Cỏ cháy
  319. Có chi mô nà!
    1
  320. Có đám mây ngoài phố đã bước cùng tôi
  321. Có khói bếp có bồ hóng
  322. Cỏ mọc thành giếng cũ
  323. Có một con đường trắng
  324. Có một mẹ thôi
  325. Có một mùa xuân muộn màng ở Huế
  326. Có một ngày như thế
  327. Có những bài thơ
  328. Có những buổi sáng cưỡi mây bay đi
  329. Cò ơi!
  330. Có thể
  331. Có thể nói nhiều về điều không thể nói
  332. Cõi lặng
  333. Cõi tạm
  334. Cõi yêu
  335. Comment cho em
  336. Con ạ!
  337. Con chim đen hót bên dòng sông đỏ
  338. Con chim sâu bé bỏng réo gọi bình minh
  339. Con chó bông
  340. Con chuột máy tính
  341. Con cóc
  342. Con đang nghĩ gì?
  343. Con đang nhoẻn miệng cười
  344. Con đi ra nắng
  345. Con đường duy nhất
  346. Con đường đất đỏ lầy mưa
  347. Con đường lá me
  348. Con đường máu
  349. Con đường mòn
  350. Con đường mòn bên mé đồi
  351. Con đường mùa đông
  352. Con đường mùa hạ
  353. Con đường thân quen
  354. Con đường về nhoè cơn mưa hạ
  355. Con gà gáy gọi sáng
  356. Con gà hắn gáy
  357. Con hẻm tối
  358. Còn không bụi phấn?
  359. Còn lại mình em
  360. Con muỗi bé tí
  361. Con quay
  362. Con rắn bò dưới chân
  363. Con suối nhỏ
  364. Con thuyền trôi trên đồi
  365. Con tôi khóc vì cái đọt cây khế đã héo
  366. Cõng
  367. Cõng xác
  368. Cô đơn
  369. Cô hồn tháng bảy
  370. Cô tập em viết
  371. Cô tề
  372. Cổ tích nước mắt
  373. Cối đá cũ ở góc vườn
  374. Côn Sơn
  375. Công việc
  376. Cởi áo quần ra lại gặp mình
  377. Cởi và trói trong màu đêm huyền mặc
  378. Cơn cớ gì?
  379. Cơn đau dạ dày của đất trời
  380. Cơn gió lạc dưới vòm trời đen như sông Tô
  381. Cơn gió xoáy
  382. Cơn khát
  383. Cơn lũ đã qua
  384. Cơn mưa khuya đen đủi
  385. Của choa
  386. Của mẹ
  387. Cúc hoạ mi
  388. Cún con
  389. Cún con đá bóng
  390. Cún con và chó tượng
  391. Cún hư
  392. Cún nghịch
  393. Cũng chưa chén hết mùa đông
  394. Cùng ông thăm lúa
  395. Cung trầm
  396. Cũng vừa
  397. Cúng xóm
  398. Cuộc chơi của lửa chưa được sử dụng nhiên liệu máu
  399. Cuộc tình mục ruỗng
  400. Cuối
  401. Cuối hè
  402. Cuối hè nhớ quê
  403. Cuối mùa
  404. Cuối năm & cảm giác tồn vong của lão Q
  405. Cuối năm viếng mộ Nguyễn Du
  406. Cuối thu
  407. Cửa sổ
  408. Dàn hợp xướng mùa hè
  409. Dáng chiều
  410. Dáng chiều
  411. Dáng mẹ
  412. Dạo phố
  413. Dân tộc
  414. Dấu nặng
  415. Dây bí
  416. Dậy hương đêm
  417. Delete
  418. Dế kêu đêm, nhớ Việt
  419. Dìu em qua phố mưa
  420. Dòng sông đục ngầu
  421. Dòng sông kín sương chiều
  422. Dòng sông quê
  423. Dòng sông tóc
  424. Dòng sông Trương Chi
  425. Dòng sông ướt mưa
  426. Dốc lạnh
  427. Dời mộ
  428. Dùng dằng Tam Đảo
  429. Duyên
  430. Duyên muộn
  431. Dư âm
  432. Dư vang
  433. Dưa hấu
  434. Dưới gốc me già
  435. Dưới mái trường mầm non
  436. Dưới rặng tre
  437. Dưới vòm cây ông trồng
  438. Dường như
  439. Đã chết trong lòng một giấc mơ
  440. Đã nghe mùa đông sờ gáy đêm khuya
  441. Đã nhốt trong nhau niềm đau
  442. Đã yêu
  443. Đài phát thanh vang ở các góc phố
  444. Đám tang cuối chiều
  445. Đang về chỗ nớ
  446. Đánh răng
  447. Đắp chăn cho cún bông
  448. Đặt tên nhớ làng
  449. Đất trời còn mưa gió nhiều
  450. Đất và bàn tay nặn gốm
  451. Đất và gạch
  452. Đầu năm bạn đến thăm nhà
  453. Đầu năm lên núi
  454. Đầu non cuối bãi
    1
  455. Đây một ngày mới như máu thịt
  456. Đèn báo
  457. Đẹp
  458. Để dành thắt cổ một đêm chơi
  459. Đếm
  460. Đêm biển
  461. Đêm buồn sờ cái gót chân
  462. Đêm ca dao
  463. Đêm cao nguyên nhớ Huế
  464. Đêm cô hồn
  465. Đêm cuối cùng
  466. Đêm gác trọ
  467. Đêm Hội An
  468. Đêm hút gió
  469. Đêm loạn
  470. Đêm lộn ngược
  471. Đêm ly khách
  472. Đêm mùa thu
  473. Đêm mưa
  474. Đêm nay những tiếng chuông đã sống dậy
  475. Đêm ngát hương hạnh nguyên
  476. Đêm nghe mưa dội trong não bộ
  477. Đêm nguyện
  478. Đêm Noel
    1
  479. Đêm nóng
  480. Đêm nở ra hoa ấm
  481. Đêm qua mưa rào
  482. Đêm qua nghĩa địa
  483. Đêm quê mưa dữ
  484. Đêm quê nội
  485. Đêm rùng mình nỗi đau
  486. Đêm tắc kè đọc Tr. Sơn
  487. Đêm trắng
  488. Đêm trung thu
  489. Đêm Vân Ngữ
  490. Đêm xuân quan họ
  491. Đi dưới gầm trời đen
  492. Đi giày
  493. Đi học mầm non
  494. Đi học ngày mưa
  495. Đi học sau tết
  496. Đi ngoài trời mưa rơi không ướt
  497. Điên
  498. Điện thoại cho mẹ
  499. Điệp ngữ tình
  500. Đinh
  501. Đò Ba Bến
  502. Đò Cồn
  503. Đỏ kinh
  504. Đoá hồng khô
  505. Đoản khúc thu
  506. Đoàn tàu chân đất
  507. Đọc thơ chú
  508. Đón giao thừa
  509. Đón năm mới hai lẻ tư
  510. Đón xuân
  511. Đố ai
  512. Độc ẩm
  513. Độc thoại
  514. Độc thoại Thuận An
  515. Đôi bạn
  516. Đôi bàn tay bé
  517. Đối diện Nhật Lệ
  518. Đội lân xóm em
  519. Đôi lúc nghĩ
  520. Đôi mắt em là nấm mộ sầu
  521. Đôi tay ba mẹ
  522. Đôi tay choàng sóng biển
  523. Đồi thơm
  524. Đồng dao cây
  525. Đồng điệu
  526. Đồng hồ báo thức
  527. Đồng tiền còn sót lại trong túi
  528. Động viên
  529. Đợi
  530. Đời chi lạ!
  531. Đợi chờ ông Noel
  532. Đợi mong
  533. Đời nghiêng như lá
  534. Đơn giản bởi em là thơ
  535. Đu quay
  536. Đùa Nha Trang
  537. Đùn
  538. Đứng dưới nắng
  539. Đừng đem trái tim ra doạ những giọt máu
  540. Đừng rơi vội hỡi chiếc lá
  541. Đừng tự trách mình
  542. Đường khuya
  543. Đường lên dốc núi
  544. Đường xưa
  545. Em bé ở khoa Ngoại
  546. Em cào xác mình bằng lưỡi cuốc đớn đau
  547. Em chừ như thể mùa đông
  548. Em cứ ra tay em sẽ biết
  549. Em đẹp như dòng nước chảy
  550. Em í a điệu luân vũ
  551. Em lỡ tay cầm chùm chìa khoá
  552. Em nghĩ về Trái Đất
  553. Em non em nước, ta về
  554. Em ơi!
  555. Em tôi đọc báo
  556. Em trả phòng để đi dọc sông hương à
  557. Em vẽ ngôi trường em
  558. Em về Tam Đảo
  559. Em về thăm đảo Hòn Chùa
  560. Em vui đến trường
  561. Em xé nát em rồi
  562. Em yêu cao nguyên
  563. Em yêu Tổ quốc của em
  564. Entry tình yêu
  565. Ếch và cóc
  566. Gã đàn ông say rượu đứng đái bên đường
  567. Gà gáy giữa chiều nắng quái
  568. Gà gáy trong rừng xuân
  569. Ga Huế, tạm biệt Linh Nhân
  570. Gà mẹ
  571. Gà trống gáy trưa
  572. Gánh đám
  573. Gạo tắm
  574. Gặp chi cắc cớ rứa trời?
  575. Gặp cô hàng xóm bồng con so
  576. Gặp đám chết đang trôi qua phố
  577. Gặp em trong cõi...
  578. Gặp hai cái chết đầu năm
  579. Gặp lại Huế em
  580. Gặp ma
  581. Gặp tia nắng trong dạ con bình minh
  582. Gần bốn mươi năm
  583. Gấp
  584. Giả thiết
  585. Giã từ lỗ
  586. Giả vờ
  587. Giàn mướp của ông
  588. Giàn mướp vàng hoa
  589. Giáo dục
  590. Giao mùa
  591. Giấc khuya
  592. Giấc mơ hoá điên bay lên nóc nhà rách
  593. Giấc mơ hoàng hôn
  594. Giấc mơ màu hướng dương
  595. Giấc mơ mùa đông
  596. Giấc mơ tan
  597. Giấc mơ về em điều khiển thân xác tôi
  598. Giấc ngủ trưa hè
  599. Giật một cú
  600. Giấu
  601. Giêng
  602. Giêng non
  603. Gió
  604. Gió 2
  605. Gió đông
  606. Gió mùa đông bắc
  607. Gió mưa đông
  608. Gió Nam
  609. Gió nát
  610. Giỏ rác
  611. Gió và quạt điện
  612. Gió xao xác khúc điêu linh lên ngàn
  613. Giọng quỷ đêm
  614. Giọt lắng
  615. Giọt máu còn tươi trong từng cơn biển thét
  616. Giọt mồ hôi
  617. Giọt mưa
  618. Giọt nắng vàng
  619. Giọt nước mắt khuya
  620. Giọt sương đêm
  621. Giọt sương sẽ tan dần trên cành
  622. Giỗ cố
  623. Giờ ra chơi
  624. Giờ tan học
  625. Giữa lòng Đại Nội
  626. Giữa miền sương đục
  627. Góc phố câm có cơn mưa điếc
  628. Gọi điện cho bố
  629. Gọi hè
  630. Gọi mùa (I)
  631. Gọi mùa (II)
  632. Gọi ngày bão giông
  633. Gọi người môi thắm
  634. Gối
  635. Gợi
  636. Guitare buồn
  637. Gửi bác Phương
  638. Gửi chị
  639. Gửi cô bé học trò
  640. Gửi mùa xuân Hà Nội
  641. Gửi Mỵ Châu
  642. Gửi người chưa gặp
  643. Gửi người của hôm nay
  644. Gửi người em gái Sư phạm
  645. Hai ba bốn chín
  646. Hai bông hoa
  647. Hai chị em
  648. Hai đứa buồn cũng thế phải không anh?
  649. Hai người mẹ
  650. Hái trầu cho bà
  651. Hai trong một
  652. Hàng trăm năm trời
  653. Hạnh phúc cho nhau
  654. Hạnh phúc xanh
  655. Hành trình mới rất cũ
  656. Hành trình não
  657. Hành trình tiếng vọng
  658. Hạt cỏ nâu
  659. Hạt nắng dễ thương
  660. Hát với Thiên An
  661. Hãy dưỡng rừng
  662. Hãy đọc từ dưới lên trên nhé!
  663. Hay hát đồng dao
  664. Hất một tiếng cười
  665. Hè về
  666. Hè về quê nội
  667. Hèn
  668. Hẹn
  669. Hẹn mùa sau
  670. Hẹn về Đà Nẵng
  671. Heo đất ngày xuân
  672. Hên xui
  673. Hiền
  674. Hiểu
  675. Hiểu dùm anh
  676. Hình dung
  677. Hoá
  678. Hoa cát
  679. Hoa dại
  680. Hoa dâm bụt
  681. Hoa gạo
  682. Hoa giấy
  683. Hoa hồng và rượu
  684. Hoạ khúc nhớ
  685. Hoa mười giờ
  686. Hoá ra con chữ cũng hay cợt đùa
  687. Hoa súng
  688. Hoá vàng ca
  689. Hoa vông
  690. Hoang hoang chiều
  691. Hoàng hôn có tiếng chim kêu lẻ
  692. Học đếm
  693. Học võ
  694. Hỏi
  695. Hỏi bàn chân cũ
  696. Hỏi mẹ
  697. Hỏi người dưới mộ
  698. Hỏi nhà ta đâu?
  699. Hỏi sông
  700. Hỏi tôi
  701. Hồ Tây chiều tháng giêng
  702. Hội An mưa nhớ một người
  703. Hội An phố thơm
  704. Hội chợ xuân
  705. Hồi chuông Yên Tử
  706. Hối hận
  707. Hội làng
  708. Hồi nhỏ
  709. Hồn của làng
  710. Hôn lần cuối
  711. Hồn xưa
  712. Hổng có chi
  713. Hơi thở
  714. Hơi thở người đàn bà ở lại
  715. Hơn bốn ngàn giọt nước mắt
  716. Huề
  717. Huế ơi! một chiều ngồi lại
  718. Huế yêu
  719. Hũng Huyện
  720. Hụt hơi
  721. Hư huyễn
  722. Hương mùa thu
  723. Hương sắc mùa thu
  724. Hương tràm
  725. Im lặng nghe thế giới động
  726. Im lặng cỏ
  727. Ít nhất có một lần
  728. Kẽ hở
  729. Kẹo ngọt
  730. Kéo rèm mưa
  731. Kẹp tóc
  732. Kể lể của một buổi chiều Chúa nhựt
  733. Khách hàng của nghề bán quan tài
  734. Khát xưa
  735. Khe Ráy
  736. Khép mở
  737. Khét
  738. Khi anh thở bằng hơi thở của em
  739. Khi anh thức giấc
  740. Khi anh vừa thức giấc
  741. Khi bà xã mang bầu
  742. Khi con chưa chào đời
  743. Khi em nằm mớ
  744. Khi hồn tôi lăng và tượng
  745. Khi nào ra phố
  746. Khi niềm tin đã mất
  747. Khi thành phố biết hôn
  748. Khi thấy anh nhổ nước bọt
  749. Khi trở về bản quán
  750. Khó ngủ
  751. Khoảnh khắc đau
  752. Khóc chi cho mệt
  753. Khóc cho bài thơ chết non
  754. Khóc cho nhau lần cuối
  755. Khói bếp chui ra vách nứa
  756. Không ai thèm nghe lời yêu thương và thù hận
  757. Không một ánh đèn
  758. Không một vệt sao
  759. Không nhời
  760. Không trắc buồn
  761. Khúc hát ban mai
  762. Khúc hát tình xuân
  763. Khúc hoan ca lẫm liệt
  764. Khúc ru tình cũ
  765. Khúc tạ từ
  766. Khúc tình nghèo
  767. Khung trời chớm hạ
  768. Khuôn mặt tôi
  769. Khuya đè lên thân xác tôi
  770. Khuya muộn
  771. Khuya sôi
  772. Khuya thăm mộ bạn
  773. Khuya trắng
  774. Khuya trôi theo bóng
  775. Khuyên bạn mèo ốm
  776. Kim Long
  777. Kim và chỉ
  778. Kỳ đài sừng sững
  779. Ký hoạ phố
  780. Ký sự cho ngày
  781. Ký ức
  782. Ký ức tuổi thơ
  783. Lá chuông rụng xuống
  784. Lá rụng lấp con đường
  785. Là rứa đó
  786. Là thầy cô của chúng em
  787. Lá thư
  788. Lạc
  789. Lạc ngày
  790. Lạc trong khói lửa
  791. Lạm dụng trò chơi ngôn ngữ
  792. Làm sao nhớ hết
  793. Làm sao viết chữ đẹp?
  794. Làm thơ
  795. Lạnh
  796. Lạnh đêm
  797. Lắc
  798. Lắng tiếng chuông
  799. Lần đầu qua cầu khỉ
  800. Lẩn thẩn chiều quê
  801. Lẩn trong mưa Huế
  802. Lấp
  803. Lật thớ đất cày trên cánh đồng máu ứ
  804. Lâu rồi gặp lại
  805. Lấy móng chân khèo móng tay
  806. Leo
  807. Lệnh
  808. Lịch sử hiện lên từ xương trắng
  809. Long lanh
  810. Lòng tôi có thể như là tất niên
  811. Lốc
  812. Lốc em
  813. Lối về
  814. Lồng đèn
  815. Lỡ tay
  816. Lời bố dặn
  817. Lời cho ngàn sau
  818. Lời cỏ (I)
  819. Lời cỏ (II)
  820. Lời của cây nơi hố thẳm
  821. Lời của tiếng đêm
  822. Lời cuối cùng cho một tình yêu
  823. Lời dặn dò nuốt từng km
  824. Lời hạ buồn
  825. Lời hứa
  826. Lời một bài thơ sắp chết
  827. Lời mưa
  828. Lời rap cho bài hát “Kẹo ngọt”
  829. Lời ru
  830. Lời ru con
  831. Lời ru của người cha trẻ
  832. Lời ru mùa thu
  833. Lời sau cuối
  834. Lời trái tim khô
  835. Lợn đất
  836. Lớp học hè
  837. Lớp học mùa đông
  838. Lũ miền Trung
  839. Lũ ve quần hội trên tán cây kêu từ sáng đến tối
  840. Lúa ơi!
  841. Lúa, gạo và cơm
  842. Lụt nguồn đất bỏ làng đi
  843. Lửa trong nấm mộ
  844. Ma sáng
  845. Mãi là trẻ con
  846. Mai Xá
  847. Mai xa còn nhớ kinh kỳ?
  848. Mai xa rồi
  849. Man mác, mênh mông và đau đáu
  850. Mang dép
  851. Mảnh đất nứt ra từng vết máu
  852. Màu của mùa thu
  853. Máu đang bùng lên ngọn lửa
  854. Máu đêm
  855. Máu đỏ bên trời
  856. Màu khói cũ
  857. Màu mưa đêm
    2
  858. Màu quê
  859. Màu sương trắng
  860. Màu ước mơ
  861. May còn tâm sự cùng em
  862. Mặt đất
  863. Mắt rưng rưng
  864. Mắt sương
  865. Mắt thu
  866. Mặt trời đi lạc
  867. Mặt trời mọc từ những ngón tay đan
  868. Mắt xưa
  869. Mầm động
  870. Mất chìa
  871. Mấy câu thơ lép
  872. Mây hay khóc
  873. Mây mù khuất đỉnh Thương Sơn
  874. Mây trẻ con
  875. Mẹ con ấm chén
  876. Mẹ con gà và cu Tí
  877. Mẹ dừa
  878. Mẹ gà đã bị con người ăn cắp hết trứng
  879. Mẹ ơi con ngủ
  880. Men tình
  881. Mẹo
  882. Mèo hát
  883. Mèo hư
  884. Mèo ngoan
  885. Mèo ôn thi
  886. Mèo sợ chuột
  887. Mèo và chó
  888. Mê mê man man
  889. Mệt
  890. Mệt quá đi thôi
  891. Mệt rồi đổi chỗ cho nhau
  892. Miệng giếng cũ đã bịt kín
  893. Miếng ngon
  894. Miệt mài sương rụng
  895. Móc ruột đêm
  896. Mỏi gót dã tràng
  897. Mong thời gian chóng qua
  898. Móng vuốt tàn khốc
  899. Mộ khúc
  900. Môi Thăng Long ngồi nhớ mắt sông Hồng
  901. Môi xưa còn giữ đá vàng cho nhau?
  902. Mộng
  903. Mộng ảo
  904. Mồng tám tháng ba
  905. Mộng trắng
  906. Mộng tưởng
  907. Một câu thơ ngắn
  908. Một chiều nắng xế miền Trung
  909. Một chùm hoa rét nở trên tay
  910. Một chùm ngôn ngữ cho chuỗi ngày đã mất
  911. Một dòng
  912. Một đêm
  913. Một đêm cố quận
  914. Một khoảng trời đã mất
  915. Một khuya một ta và một rượu
  916. Một lần tôi nói yêu em
  917. Một lần thôi em
  918. Một lối rẽ nào đây?
  919. Một mình một bóng với non xưa nước cũ
  920. Một mình ngồi nghe mùi nhang rất thơm trong đêm
  921. Một ngày
  922. Một ngày buồn
  923. Một ngày của mẹ
  924. Một ngày cuối tháng bảy hai lẻ chín
  925. Một ngày cuối tháng tư
  926. Một ngày Huế buồn
  927. Một ngày ở biển mình hôn
  928. Một ngày rứa đó
  929. Một thoáng Hạ Long
  930. Một vòng rục rịch
  931. Mờ
  932. Mở cái máy ra nè cho biết mặt!
  933. Mở và khép
  934. Mời bạn
  935. Mời bạn về thăm xứ Huế
  936. Mù 2
  937. Mũ bảo hiểm và con bướm vàng
  938. Mù mê
  939. Mùa đông nhạt nhoà
  940. Mùa đông qua rồi
  941. Mùa gặt
  942. Mùa hạ gay nồng
  943. Mùa hè ở Cù Lao Chàm
  944. Mùa hè về rồi
  945. Mùa hoa gạo
  946. Mùa nhãn chín
  947. Mùa nước nổi
  948. Mùa ổi
  949. Mùa sim chín
  950. Mùa thị vàng
  951. Mùa thu bỏng rát
  952. Mùa thu đã quên tôi rồi
  953. Mùa thu tự sát
  954. Mùa thu xanh
  955. Mùa tóc úa
  956. Mùa vàng
  957. Mùa vui khai trường
  958. Mùa xuân đã về
  959. Mùa xuân em đi trồng cây
  960. Mùa xuân em yêu
  961. Mùa xuân ơi hãy về
  962. Mục tiêu
  963. Mùi âm thanh đã rách
  964. Mùi bể dâu
  965. Mùi hương vẫn thức
  966. Mùng hai tết ngủ với ma
  967. Muối
  968. Muộn
  969. Mưa bão Hà thành nhớ ngày rét Huế
  970. Mưa bão Huế
  971. Mưa chiều Đội Cung
  972. Mưa dồn xuống làng
  973. Mưa dộng trên nguồn
  974. Mưa đêm ở Vĩnh Điềm Trung
  975. Mưa giêng
  976. Mưa giông
  977. Mưa Hà Khê
  978. Mưa mồ hôi
  979. Mưa mù như nhang khói
  980. Mưa nghiêng cánh phượng
  981. Mưa Quan Âm
  982. Mưa tạt vào giấc ngủ
    1
  983. Mưa trên Đài Bắc
  984. Mưa từ chiều tới tối
  985. Mưa xuân
  986. Mừng chị vàng mơ
  987. Mừng sinh nhật em
  988. Mười bốn tháng tám một chín bảy ba
  989. Mười lăm năm mất ngủ
  990. Mười sáu
    1
  991. Mưu sinh
  992. Nằm
  993. Nằm chộ
  994. Nằm nghe khuya rớt
  995. Nằm nghe máu rụng
  996. Nằm nghe máu thở
  997. Nằm nghe mưa bão
  998. Nắng
  999. Nắng chiều qua ngõ
  1000. Nắng cùng cực
  1001. Nắng đã chen trên lá rừng
  1002. Nắng đã tạo ra bóng mát
  1003. Nắng đổ rát lưng tháp
  1004. Nắng hạn không giới hạn
  1005. Nắng Huế và em
  1006. Nắng quê nghèo
  1007. Nắng sôi trên mặt đường
  1008. Nắng trúc
  1009. Nấc
  1010. Nén hương lòng cho Công
  1011. Nén nhang cháy
  1012. Nếu... thì...
  1013. Ngã ba sông
  1014. Ngát tận
  1015. Ngày buồn
  1016. Ngày cũ giống ngày mới
  1017. Ngày cuối năm ở nhà một mình
  1018. Ngày đầu tiên tháng sáu
  1019. Ngày hạnh phúc
  1020. Ngày hè nhắm mắt
  1021. Ngày mai xa
  1022. Ngày mùa
  1023. Ngày ngắn đêm dài
  1024. Ngày rất gần và loài người còn xa lắm
  1025. Ngày tận cùng em trong giấc tự do
  1026. Ngày tận với em trong giấc tự do
  1027. Ngày và đêm
  1028. Ngày về
  1029. Ngày về nhớ Bùi Giáng
  1030. Ngày vui của bé
  1031. Ngày xuân nâng cốc cùng em
  1032. Ngày xưa con người sợ cọp dữ ăn thịt
  1033. Ngày xưa hư thực
  1034. Ngày xưa nói gì?
  1035. Ngắn và dài
  1036. Ngậm
  1037. Ngậm lý thuyết cũ
  1038. Ngậm mưa
  1039. Nghe
  1040. Nghe bắt mệt
  1041. Nghé con
  1042. Nghe điện thoại
  1043. Nghe không khí lạnh
  1044. Nghe lạnh vào đông
  1045. Nghe mùi khoai nướng
  1046. Nghe Sài Gòn trong ta chiều ấy
  1047. Nghe tiếng còi tàu
  1048. Nghẹn
  1049. Nghề bán quan tài
  1050. Nghĩ 2
  1051. Nghĩa trang
  1052. Nghịch
  1053. Nghịch ơi là nghịch!
  1054. Nghiệm
  1055. Nghiêng nghiêng chiếc lá
  1056. Nghiệt
  1057. Ngó
  1058. Ngỏ
  1059. Ngó lại
  1060. Ngó mà bưa
  1061. Ngó ngang mùa cũ
  1062. Ngó thôi cũng gọi rằng yêu
  1063. Ngó trăng méo xẹo
  1064. Ngõ trưa
  1065. Ngó xa xăm lại thấy mình xa xăm
  1066. Ngó xuống nhân gian
  1067. Ngoại của em
  1068. Ngoảnh lại
  1069. Ngọc trong đá
  1070. Ngón đàn si
  1071. Ngón tay cái
  1072. Ngọn trăng lên
  1073. Ngọt ngào
  1074. Ngọt ngào lời ru
  1075. Ngồ ngộ
  1076. Ngồi bệt trên lá thông khô
  1077. Ngồi buồn ngắt cái lông mũi
  1078. Ngồi chơi với cỏ
  1079. Ngôi mộ cũ
  1080. Ngôi mộ lặng thinh
  1081. Ngôi mộ nước
  1082. Ngôi sao nhỏ
  1083. Ngồi với sông
  1084. Ngờ
  1085. Ngợp cầu chợ dinh nghe nằng nặng
  1086. Ngợp tình
  1087. Ngủ dậy cho gà ăn
  1088. Ngút ngàn đêm
  1089. Nguyện
  1090. Nguyễn Du
  1091. Nguyên tiêu
  1092. Ngựa gối
  1093. Ngực trần
  1094. Ngược nắng
  1095. Người đàn bà điên loạn
  1096. Người đàn bà học vẽ
  1097. Người lính ấy
  1098. Người mẹ Thượng Đức
  1099. Người ơi đừng buồn chi thêm đau
  1100. Người phu oằn vai
  1101. Người ta dựng mái nhà mới hoành tráng cho tấm bia mòn hết chữ
  1102. Người ta thích trời nắng
  1103. Người theo chồng chiều mưa
  1104. Nhà thơ là con kiến nhỏ
  1105. Nhánh sầu bên sông Bạch Yến
  1106. Nhạt
  1107. Nhảy dây
  1108. Nhắm & mở
  1109. Nhặt máu mùa xuân
  1110. Nhẩm
  1111. Nhẩm thử
  1112. Nhân dạy thơ thiền Lý Trần
  1113. Nhận diện
  1114. Nhấn phím buồn
  1115. Nhập
  1116. Nhện ạ! Mi thật giỏi!
  1117. Nhện hỡi!
  1118. Nhìn và quay mặt
  1119. Nhịp thu
  1120. Nhịp võng đưa
  1121. Nhoà
  1122. Nhói
  1123. Nhớ cái chết của thằng bạn đào vàng năm cũ
  1124. Nhớ chi nhớ lạ!
  1125. Nhớ con
  1126. Nhớ em
  1127. Nhớ màu áo cũ
  1128. Nhớ một chiều Hà Nội
  1129. Nhớ mùi nước đái
  1130. Nhớ Phạm Phú Hải
  1131. Nhớ Quảng Nam
  1132. Nhớ quê
  1133. Nhớ ruộng
  1134. Nhủ
  1135. Nhú
  1136. Như cơn mưa chiều nay
  1137. Như cơn mưa chiều nay
  1138. Như cơn mưa đêm nay
  1139. Như một phiêu bồng
  1140. Những bàn tay
  1141. Những buổi chiều thế đấy
  1142. Những bức tranh trong lớp em
  1143. Những bức tranh uất
  1144. Những cái khuôn
  1145. Những cái xác
  1146. Những chiếc bánh bị giết chết
  1147. Những chiếc móc trên dây phơi đồ
  1148. Những chú cún ở đảo Núi Le
  1149. Những chú lợn con
  1150. Những chú voi phun nước
  1151. Những con chim mất trí nhớ
    1
  1152. Những con đường lạ hoắc
  1153. Những con đường mộ địa
  1154. Những con kiến già khụ
  1155. Những con số định mệnh
  1156. Những con sông cướp máu phố phường làng xóm
  1157. Những cồn cào gió
  1158. Những dấu phẩy của âu thị phục an
  1159. Những dòng chữ tượng hình trên bia tiến sĩ
  1160. Những đám mây xám
  1161. Những đốt xương của mùa xuân
  1162. Những giọt máu trong buổi chiều mù
  1163. Những giọt nắng
  1164. Những giọt nước mắt mẹ tôi
  1165. Những giọt xuân
  1166. Những hột máu khô vận hành trên bờ huệ niệm
  1167. Những khúc sông buồn trong cõi chết
  1168. Những lẵng hoa rực rỡ
  1169. Những linh hồn trôi
  1170. Những măng tre bụ bẩm
  1171. Những mùa gặt đã qua
  1172. Những nẻo đường gãy
  1173. Những ngày tháng tư
  1174. Những ngọn lửa cọ mình
  1175. Những nỗi buồn
  1176. Những nụ hôn đêm qua
    1
  1177. Những oan hồn hoá đá
  1178. Những que củi
  1179. Những sợi tóc
  1180. Những tán lá trên đầu
  1181. Những tàu lá chuối
  1182. Những tiếng kêu mọc sừng
  1183. Những toà tháp nát dần theo tuế nguyệt
  1184. Những vết thương lòng
  1185. Những viên gạch móc từ ngôi nhà vừa đập xong
  1186. Những...
  1187. Niệm
  1188. Niềm tin bị cướp
  1189. Nói chung là
  1190. Nói chuyện với muỗi
  1191. Nói chuyện với người bạn già xa nửa vòng trái đất
  1192. Nói gì? Im lặng thì hơn
  1193. Nói phét
  1194. Nói rất nhỏ nhẹ với người con gái
  1195. Nón lá
  1196. Nóng dữ hè!
  1197. Nỗi ám
  1198. Nỗi buồn
  1199. Nỗi buồn của cún
  1200. Nỗi buồn cứ kéo dài ra
  1201. Nỗi buồn là dòng máu chảy xiết
  1202. Nỗi đau có thấu đất trời?
  1203. Nỗi khuya
  1204. Nỗi lòng cô phụ
  1205. Nối một vòng tay
  1206. Nỗi riêng
  1207. Nội và ngoại
  1208. Nồng ấm môi xuân
  1209. Nơi ấy mặt trời ló lên
  1210. Nơi cất giáu tiếng khóc
  1211. Nơi hội tụ tình xuân
  1212. Nơi tuổi thơ em
  1213. Nụ cười lạ
  1214. Nụ hôn cần thiết
  1215. Nụ hôn đêm Giáng sinh
  1216. Nụ tình
  1217. Nuốt thơ
  1218. Nửa đêm
  1219. Nửa đêm đau răng không ngủ được
  1220. Nửa đêm mưa nghe bàn chân lạnh ngắt
  1221. Nửa đêm mưa nghe cái chân lạnh ngắt
  1222. Nửa đêm nói chuyện với chú ve bay vào phòng sách
  1223. Nửa đêm, dừng chân bên bãi tha ma, ngó trăng
  1224. Nước chè xanh
  1225. Nước mắt đêm vắng
  1226. Ô cửa màu xanh
  1227. Ổ khoá thời gian
  1228. Ô này em áo trắng
  1229. Ôi đời sao nhạt thế?
  1230. Ông bác sĩ
  1231. Ông giao thừa
  1232. Ông nội
  1233. Ông ốm
  1234. Ông rác
  1235. Ông trăng đêm rằm
  1236. Ông trăng ơi!
  1237. Ông trời cắc cớ
  1238. Ở Côn Sơn đọc Nguyễn Trãi nhớ bạn
  1239. Ở đời
  1240. Ở phía chuồng bình minh
  1241. Ở Quy Nhơn viếng Hàn
  1242. Ở vườn trẻ
  1243. Phai
  1244. Phát hiện của bé
  1245. Phất
  1246. Phép cộng mùa xuân
  1247. Phiến lá nõn
  1248. Phim ma
  1249. Phố núi ngày về
  1250. Phố quen
  1251. Phú Bình chiều tan học
  1252. Phục an
  1253. Qua Ba Khe
  1254. Qua cầu Ái Nghĩa
  1255. Quà cho em bé
  1256. Qua dốc mẹ bồng con
  1257. Qua lối cỏ tranh
  1258. Quả lựu
  1259. Quả mẹ
  1260. Quà mùa đông
  1261. Qua nương sắn cũ
  1262. Quà sinh nhật
  1263. Quả trăng tròn
  1264. Qua vườn hoa
  1265. Quạt bà, quạt bố
  1266. Quạt trần
  1267. Quay quắt ngả tư
  1268. Quét lá khô
  1269. Quê cũ
  1270. Quên
  1271. Quy Nhơn
  1272. Ray rứt Tuy Hoà
  1273. Rất dại
  1274. Rất là khó chịu
  1275. Rất thu
  1276. Rất tự nhiên
  1277. Rét nàng Bân
  1278. Rễ cây
  1279. Rong chơi trong bóng khuya
  1280. Ròng rã nơi đó...
  1281. Rồi cơn mưa sẽ tạnh
  1282. Rồi ngày tháng trôi đi
  1283. Rốt cục cũng là máu thôi
  1284. Rơi
  1285. Rơm thành tro
  1286. Rớt
  1287. Ru con
  1288. Ru em
  1289. Rủ nhau đi học
  1290. Rụng xuống môi sầu nước mắt cay
  1291. Rứa hả?
  1292. Rứa là
  1293. Rứa mà đêm qua trời mưa ở Huế
  1294. Rứa mới biết
  1295. Rừng cháy
  1296. Rừng ơi ta khóc cho rừng
  1297. Rưng rức họng đêm
  1298. Rừng sao vui
  1299. Rừng xuân mai
  1300. Rượu gạo và khói thuốc
  1301. Rượu khuya Vĩnh Chấp
  1302. Rượu ơi!
  1303. Rượu trăng
  1304. Sa mạc trắng
  1305. Sài Gòn 20h30
  1306. Sài Gòn mình em ở lại
  1307. Saigon 20h30
  1308. Saigon ơi! hẹn ngày trở lại
  1309. Sáng & tối
  1310. Sáng khai trường
  1311. Sáng mùa xuân
  1312. Sáng nay con ăn gì?
  1313. Sáng nay Hà Nội lại mưa
  1314. Sang thu
  1315. Sáng và tối
  1316. Sáng, đi bộ, nghe quạ kêu
  1317. Sao em không nhấc máy?
  1318. Sao tôi là con người như thế?
  1319. Sapa sương khói
  1320. Sau lũ
  1321. Sầm Sơn
  1322. Sân trường của cháu
  1323. Sân trường vào hạ
  1324. Sân trường xanh
  1325. Sâu răng
  1326. Sẽ không bao giờ thấy những giọt máu trong đêm tối mịt
  1327. Sẽ quên một cuộc tình
  1328. Sến một phát cho lòng thêm thơm ngát
  1329. Sinh khí
  1330. So sánh Huế
  1331. Sỏi
  1332. Soi gương
  1333. Sóng lạnh
  1334. Sóng ngoan
  1335. Số nhiều bất chợt
  1336. Sông Hương đẹp và thơ
  1337. Sông mưa
  1338. Sông trăng
  1339. Sở hữu
  1340. Sợi duyên
  1341. Sớm xuân
  1342. Sơn ca và vẹt
  1343. Sủa
  1344. Sủa 2
  1345. Sủa đêm
  1346. Sự cảnh giác cần thiết đối với lòng thương hại
  1347. Sự cấm kỵ
  1348. Sự cô đơn là âm thanh rất xa
  1349. Sự đấu tranh
  1350. Sự hấp hối
  1351. Sự im lặng của mùa thu
  1352. Sự im lặng của thời gian
  1353. Sự may mắn còn sót lại
  1354. Sự thật của tháng ba
  1355. Sự trần truồng khép kín
  1356. Sự trở về
  1357. Sự tự do quẳng con chim tôi vào lửa
  1358. Sưởi
  1359. Sương khói Buôn Ma
  1360. Sương khuya
  1361. Ta buồn chi lạ huế ơi!
  1362. Ta dắt ta đi
  1363. Ta như giọt lệ giữa dòng phù sinh
  1364. Ta thất vọng
  1365. Ta thở đại bên góc trời đã xước
  1366. Tai thỏ
  1367. Tạm
  1368. Tạm biệt Hà Nội
  1369. Tạm biệt lớp 5
  1370. Tạm biệt mùa hè
  1371. Tán
  1372. Tan
  1373. Tàn cây trụi lá
  1374. Tan vào bờ môi câm
  1375. Tàu chợ
  1376. Tau hỏi mi
  1377. Tàu qua đèo Hải Vân
  1378. Tay bà
  1379. Tay bé
  1380. Tay chân co rút
  1381. Tắm cho Đốm
  1382. Tắm thôi nè!
  1383. Tặng bạn
  1384. Tắt đường
  1385. Tắt tiếng
  1386. Tấm ảnh cũ
  1387. Tấm gương soi mặt mình
  1388. Tâm sự mười năm
  1389. Tận cùng nỗi nhớ
  1390. Tất nhiên trong đêm tối những bóng ma đã giấu tiếng thở
  1391. Tây Ninh dạ hành
  1392. Tết đấy chứ!
  1393. Tết này cháu lại về quê
  1394. Tết quê
  1395. Thả diều
  1396. Tha ma giữa ngọ
  1397. Thạch Bàn khê
  1398. Thái hư lảo đảo
  1399. Tháng chạp
  1400. Tháng chín
  1401. Tháng giêng hái lộc
  1402. Tháng giêng trung du
  1403. Tháng sáu
  1404. Tháng tư nước đã chết và bầu trời không tiếng hót
  1405. Tháng tư về Quảng Trị
  1406. Thánh Gióng
  1407. Thành phố chen chúc
  1408. Thay bà quét rác
  1409. Thay mẹ nấu cơm
  1410. Thăm cô giáo
  1411. Thăm làng
  1412. Thằng điên
  1413. Thằng Lật Đật
  1414. Thắp lên một nén nhang thơm
  1415. Thắp nhang tiễn bạn
  1416. Thân cây chuối bị chặt một nửa đã khô những bẹ
  1417. Thần kinh xao xác ngô đồng
  1418. Thật chán! Một loài khỉ đột bước vào giấc chiêm bao của tôi
  1419. Thấy
  1420. Thấy lạnh trong hồn
  1421. Theo anh ra ngoài thành Huế
  1422. Theo em về hội làng Sình
  1423. Thế giới trong em
  1424. Thêm một ngày kết tủa
  1425. Thêm tuổi mới
  1426. Thí dụ cho riêng ta
  1427. Thí điểm hay trò chơi
  1428. Thì hai đứa động viên nhau
  1429. Thì thôi gặp gỡ...
  1430. Thoáng chợ quê
  1431. Thói
  1432. Thói quen
  1433. Thôi đành
  1434. Thở cho đã
  1435. Thơ tặng độc giả nhí Văn Tuổi Thơ
  1436. Thơ tặng ta ngày cuối đông
  1437. Thơ viết trong ngày sinh nhật học trò
  1438. Thời gian
  1439. Thời gian
  1440. Thời gian nhắm mắt
  1441. Thời gian rớt
  1442. Thời gian trong chảo dầu
  1443. Thơr trong mắt của anh đấy
  1444. Thu nhớ bạn
  1445. Thuyền lá và những chú cá con
  1446. Thưa em!
  1447. Thưa rằng cơm bụi
  1448. Thức dậy sau cơn bão
  1449. Thương ca ngày mùa
  1450. Thương hoài thương huỷ
  1451. Thương lắm vòm me xanh
  1452. Thương nhau cho miếng quýt chua
  1453. Ti vi
  1454. Tịch lặng
  1455. Tiếc
  1456. Tiễn
  1457. Tiễn bạn lên ga Huế
    1
  1458. Tiễn sông
  1459. Tiếng bước chân lê không hở mặt đất
  1460. Tiếng chim
  1461. Tiếng côn trùng
  1462. Tiếng cười nuôi ai?
  1463. Tiếng đêm
  1464. Tiếng đồng hồ rụng
  1465. Tiếng em
  1466. Tiếng ho ngày bão
  1467. Tiếng ho rừng
  1468. Tiếng khóc chào đời
  1469. Tiếng khóc trên đồng
  1470. Tiếng một loài côn trùng
  1471. Tiếng mưa càm ràm bên đáy cửa sổ
  1472. Tiếng mưa đêm giã nát mái tranh
  1473. Tiếng nói của những ngón tay cứng khớp
  1474. Tiếng sấm sét
  1475. Tiếng thở dài
  1476. Tiếng trống
  1477. Tiếng trưa
  1478. Tiếng ve
  1479. Tiếng ve trên cây gòn bên sông Hương
  1480. Tiết kiệm
  1481. Tìm
  1482. Tìm một vạt đất làm một ngôi mộ gió
  1483. Tìm trong màu trắng đục
  1484. Tin hè
  1485. Tín hiệu
  1486. Tín hiệu mùa xuân
  1487. Tín hiệu trên nhành cây trụi lá
  1488. Tin nhắn còn sót trên bàn thờ
  1489. Tin nhắn ngày tình yêu
  1490. Tin nhắn tình yêu
  1491. Tĩnh & động
  1492. Tình bạn
  1493. Tình ca nỗi nhớ
  1494. Tình ca trên dây phơi căng gió
  1495. Tình khóc trong mưa
  1496. Tinh khôi mùa xuân
  1497. Tình khúc Valentine
  1498. Tình muộn màng như trái táo xanh
  1499. Tình nghèo
  1500. Tình như lá khô
  1501. Tình quê
  1502. Tình thị
  1503. Tình xa
  1504. Tình xuân
  1505. Tình yêu
  1506. Tình yêu tình cờ
  1507. Toạt
  1508. Tóc đùa nên tóc rối
  1509. Tổ ấm
  1510. Tôi ăn cái lạnh một ngày cuối đông
  1511. Tôi bóp trái tim mình
  1512. Tôi đã bóp trái tim mình
  1513. Tôi đã đến một lần và ra đi mãi mãi
  1514. Tôi đã nghe nắng chiều lội qua sông
  1515. Tôi đã thấy sáng nay đoá hoa hồng rụng
  1516. Tôi đi một vòng quanh tôi
  1517. Tôi mở cửa chiếc tủ lạnh cũ
  1518. Tôi mơ về cái chết của tôi
  1519. Tôi nằm cạnh cơn bão
  1520. Tôi nằm xuống một đêm trong ngôi làng cổ
  1521. Tôi nghe phía đầu nguồn
  1522. Tôi nghe tiếng kêu u tịch của loài người
  1523. Tôi nghĩ không phải là hiện tại mà cũng có thể
  1524. Tôi ngồi
  1525. Tôi ngồi một góc phương Đông
  1526. Tôi ngồi xỉa cái phận tôi
  1527. Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ
  1528. Tôi nói về cái chết
  1529. Tôi ở tại nơi không phải là nơi tôi ở
  1530. Tôi trôi về Quảng Nam
  1531. Tôi về giữa phố đêm nay
  1532. Tôi yêu sự lặng câm
  1533. Trà khuya
  1534. Trách mây
  1535. Trái cởi trần
  1536. Trái đất xoay
  1537. Trái tim mùa cũ
  1538. Tràn qua lòng bão xé
  1539. Trang báo quá tải
  1540. Trạng Lường
  1541. Trăng bạc
  1542. Trăng con gái
  1543. Trăng đồng quê
  1544. Trăng khuyết
  1545. Trăng ký ức
  1546. Trăng là gì hở mẹ?
  1547. Trăng sống lại
  1548. Trăng Thanh Tân
  1549. Trăng trối
  1550. Trăng và đèn đường
  1551. Trầm luỵ trong mô thức khuynh đồi bản ngã
  1552. Trần gian chật quá!
  1553. Trâu già
  1554. Trầu và hồ tiêu
  1555. Trễ tàu
  1556. Trên cánh đồng chiều
  1557. Trên cao nguyên mùa đông nghe đá thở
  1558. Trên cầu sương khói
  1559. Trên con đường cũ
  1560. Trên đồi sim chết
  1561. Trên đồi xuân mộng
  1562. Trên hành trình làm người
  1563. Trên khuôn mặt không còn ánh sáng
  1564. Trên triền đê
  1565. Trên vũng bùn non
  1566. Trinh trắng
  1567. Trò chơi
  1568. Trò chơi lạc đà
  1569. Trọ đêm Hà Nội
  1570. Trò lười
  1571. Trong bóng tối
  1572. Trong bụng mẹ có nôi không?
  1573. Trong cõi phù du
  1574. Trong cơn đau này
  1575. Trong cơn mê loài thú hoang
  1576. Trong cơn mưa vội
  1577. Trong giấc mơ buổi sáng
  1578. Trong giấc mưa khuya
  1579. Trong góc hồn tôi
  1580. Trong kẽ tường mục
  1581. Trong khu rừng man trá
  1582. Trong màu khói lạnh
  1583. Trong màu máu đỏ
  1584. Trong màu nhang khói
  1585. Trong một mâm cơm
  1586. Trong ngôi nhà hoang gặp lò rượu cũ
  1587. Trong quán “Bạn và tôi”
  1588. Trong ruột mình có cơn mưa
  1589. Trong thân xác này là những que nhang
  1590. Trong thùng rác
  1591. Trồi
  1592. Trở lại sự bình yên
  1593. Trở qua trở lại
  1594. Trời chưa chịu sáng
  1595. Trung du
  1596. Trung thu tròn và vàng
  1597. Trưa mùng tám Tết nơi đó mùa đang rụng trứng [gà]
  1598. Trưa qua ngõ cụt
  1599. Trưa sáu ba một một lòng vòng Đà Nẵng
  1600. Trưa trên nương
  1601. Trước biển
  1602. Trước biển Vũng Tàu
  1603. Trước di sản
  1604. Trước khi về Đà Nẵng
  1605. Trước mộ
  1606. Trước sau là bụi
  1607. Trường mầm non của cháu
  1608. Trượt trên nỗi nhớ
  1609. Tuần trăng mật
  1610. Tuổi à! tuổi ơi!
  1611. Tuổi khỉ
  1612. Tuổi thơ
  1613. Tuy Hoà
  1614. Từ bếp lửa nhìn ra
  1615. Tự cảm
  1616. Tự do kiểm duyệt
  1617. Tự hỏi
  1618. Tự nhiên
  1619. Tự nhiên vợ gọi
  1620. Tự nhủ
  1621. Tự nói với mình
  1622. Từ trong bóng tối
  1623. Tự vấn
  1624. Từng cơn đau thắt ruột
  1625. Từng giọt mồ hôi
  1626. Tượng câm lặng
  1627. Tượng đêm giao thừa
  1628. Tưởng niệm
  1629. Tượng Sơn
  1630. Tương tư
  1631. Tưởng tượng
  1632. Uhm!
  1633. Ui cha! tội hè!
  1634. Uống Làng Chuồn ở Hắc Mộc Nhai
  1635. Uống rượu với Hiền, Dân
  1636. Uống với cu Hiếu!
  1637. Úp mặt vào tường
  1638. Uyển khúc thu
  1639. Ừ thì em cứ đi
  1640. Ừ thôi mùa thu
  1641. Ừ ừ! Té ra là vậy!
    1
  1642. Ươm hạt
  1643. Vạch một vết máu cho mùa xuân
  1644. Vai diễn
  1645. Vào Sài Gòn đi, mình again
  1646. Vắng em
  1647. Vầng trăng lạnh
  1648. Vầng trăng Quảng Ngạn
  1649. Vầng trăng viễn phố
  1650. Vẽ trên võ não
  1651. Về chốn xưa
  1652. Về đâu mong manh
  1653. Về đi
  1654. Về Huế đi anh
  1655. Về Huyền Không Sơn Thượng
  1656. Về những nụ hôn
  1657. Về quê
  1658. Về xưa
  1659. Vết đau dai dẳng
  1660. Vết sẹo
  1661. Vết sẹo câm
  1662. Vết sẹo của nỗi buồn chái bếp
  1663. Vết thương dịu dàng
  1664. Vệt trăng kinh thành
  1665. Vì sao lưng bà còng?
  1666. Viên phấn gãy
  1667. Viết cho con ngày xa
  1668. Viết cho người đàn bà tê liệt!
  1669. Viết trong mù sương Huế
  1670. Viết trong ngày lễ tình yêu
    1
  1671. Viết trước ngày chị làm dâu
  1672. Vòi vĩnh nguyên tiêu
  1673. Võng đưa
  1674. Vọng khúc xuân
  1675. Vọng khúc xuân tình
  1676. Vọng khuya
  1677. Vọng làng
  1678. Vọng phương Nam hành
  1679. Vòng tay muộn
  1680. Vòng vèo ngõ quê
  1681. Vô thường màu nắng
  1682. Vô tình
  1683. Vỗ về hột bụi
  1684. Vội mà không vội
  1685. Vợ
  1686. Với cao nguyên
  1687. Với cây guitare bạn hãy hát lên như đứa trẻ lần đầu tiên xa nhà
  1688. Với Đông Hà
  1689. Với em ngày xa
  1690. Vũ khí
  1691. Vui này!
  1692. Vườn hoa nhỏ
  1693. Vượn hú bầm phiến lá
  1694. Vượt thoát
  1695. Xác chết một người đàn ông
  1696. Xạo
  1697. Xao xác
  1698. Xem quảng cáo
  1699. Xem thư pháp
  1700. Xế
  1701. Xịu lơ
  1702. Xoá đi một tin nhắn và quên
  1703. Xuân bất chợt
  1704. Xuân đuối đơ
  1705. Xuân ngây ngô
  1706. Xuân về khua sóng Vu Gia
  1707. Xuân về rồi đó
  1708. Xuân về trên núi
  1709. Xuân về trong nắng
  1710. Xuỵt
  1711. Ý thu
  1712. Yêu anh em biết làm thơ
  1713. Yêu là nhớ nhớ quên quên

Thơ dịch tác giả khác

  1. A Kiều oán (Lưu Vũ Tích)
    17
  2. An Định thành lâu (Lý Thương Ẩn)
    12
  3. Ẩm mã Trường Thành quật hành (Thái Ung)
    3
  4. Ẩm tửu khán mẫu đơn (Lưu Vũ Tích)
    34
  5. Bả tửu vấn nguyệt (Lý Bạch)
    15
  6. Bạc Tần Hoài (Đỗ Mục)
    28
  7. Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh (Sầm Tham)
    9
  8. Bãi Chung Lăng mạc sứ thập tam niên, lai Bạc Bồn phố cảm cựu vi thi (Đỗ Mục)
    8
  9. Bào trung thi (Khai Nguyên cung nhân)
    10
  10. Bi ca (Khuyết danh Trung Quốc)
    3
  11. Biện hà hoài cổ kỳ 2 (Bì Nhật Hưu)
    6
  12. Biên từ (Trương Kính Trung)
    15
  13. Bồ tát man (Án Kỷ Đạo)
    2
  14. Cảm ngộ kỳ 02 (Trần Tử Ngang)
    11
  15. Cổ biệt ly (Mạnh Giao)
    19
  16. Cổ oán biệt (Mạnh Giao)
    10
  17. Cung trung đề (Lý Ngang)
    6
  18. Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ (Vương Duy)
    31
  19. Dạ tuyết (Bạch Cư Dị)
    8
  20. Dịch thuỷ tống biệt (Lạc Tân Vương)
    22
  21. Du tử ngâm (Mạnh Giao)
    24
  22. Dương liễu chi từ (Bùi Di Trực)
    5
  23. Đại phong ca (Lưu Bang)
    5
  24. Đào giả (Mai Nghiêu Thần)
    5
  25. Đào hoa khê (Trương Húc)
    27
  26. Đảo luyện tử - Chử thanh tề (Hạ Chú)
    3
  27. Đảo luyện tử - Dạ đảo y (Hạ Chú)
    3
  28. Đăng Lạc Du nguyên (Lý Thương Ẩn)
    22
  29. Đăng Lạc Du nguyên (Đỗ Mục)
    11
  30. Đăng Quán Tước lâu (Vương Chi Hoán)
    23
  31. Đăng U Châu đài ca (Trần Tử Ngang)
    36
  32. Đằng Vương các (Vương Bột)
    27
  33. Đề Đào Hoa phu nhân miếu (Đỗ Mục)
    11
  34. Đề hoa diệp thi (Đức Tông cung nhân)
    8
  35. Đề hồng diệp (Tuyên Tông cung nhân Hàn thị)
    10
  36. Đề Ô giang đình (Đỗ Mục)
    12
  37. Đề quy mộng (Lý Hạ)
    2
  38. Đề Viên thị biệt nghiệp (Hạ Tri Chương)
    16
  39. Độ Tang Càn (Giả Đảo)
    24
  40. Đồ trung lập xuân ký Dương Tuân Bá (Đậu Thường)
    8
  41. Độc Lý Bạch thi tập (Trịnh Cốc)
    13
  42. Đông Dương tửu gia tặng biệt kỳ 2 (Vi Trang)
    13
  43. Đồng đề Tiên Du quán (Hàn Hoằng)
    6
  44. Giang thượng ngâm Nguyên bát tuyệt cú (Bạch Cư Dị)
    6
  45. Há Chung Nam sơn, quá Hộc Tư sơn nhân túc, trí tửu (Lý Bạch)
    15
  46. Hành quân cửu nhật tư Trường An cố viên (Sầm Tham)
    11
  47. Hoạ Tam Hương thi (Cao Cù)
    4
  48. Hoài thượng biệt hữu nhân (Trịnh Cốc)
    30
  49. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lý Bạch)
    62
  50. Hoàng Phủ Nhạc Vân Khê tạp đề kỳ 1 - Điểu minh giản (Vương Duy)
    28
  51. Hồi hương ngẫu thư kỳ 1 (Hạ Tri Chương)
    43
  52. Hồi hương ngẫu thư kỳ 2 (Hạ Tri Chương)
    20
  53. Hồng đậu từ (Tào Tuyết Cần)
    6
  54. Hữu nhân dạ phỏng (Bạch Cư Dị)
    11
  55. Hữu sở tư (Lư Đồng)
    13
  56. Khách cư thuật hoài (Hoàng Nguyễn Thự)
    4
  57. Khê cư (Bùi Độ)
    11
  58. Khuê oán (Vương Xương Linh)
    37
  59. Kim lũ y (Đỗ Thu Nương)
    33
  60. Ký phu (Trần Ngọc Lan)
    11
  61. Lão lai (Trần Nguyên Đán)
    4
  62. Lập xuân tức sự (Đặng Đình Tướng)
    4
  63. Lũng Tây hành kỳ 2 (Trần Đào)
    19
  64. Lữ hoài (Văn Thiên Tường)
    3
  65. Lương Châu từ kỳ 1 (Vương Hàn)
    52
  66. Lương Châu từ kỳ 1 (Xuất tái) (Vương Chi Hoán)
    26
  67. Mai hoa (Huyền Quang thiền sư)
    10
  68. Nam hành biệt đệ (Vi Thừa Khánh)
    28
  69. Ngạc quán thư hoài (Trần Ích Tắc)
    4
  70. Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 (Lý Bạch)
    26
  71. Nông phủ (Trương Bích)
    6
  72. Ô dạ đề (Lý Bạch)
    17
  73. Phù Dung lâu tống Tân Tiệm kỳ 1 (Vương Xương Linh)
    33
  74. Phù lưu tiền hành (Tùng Thiện Vương)
    3
  75. Phùng lão nhân (Ẩn Loan)
    3
  76. Phùng nhập kinh sứ (Sầm Tham)
    22
  77. Quá cố nhân trang (Mạnh Hạo Nhiên)
    16
  78. Quá Linh Đinh dương (Văn Thiên Tường)
    15
  79. Quan thương thử (Tào Nghiệp)
    9
  80. Sa hành đoản ca (Cao Bá Quát)
    7
  81. Sơn hạ túc (Bạch Cư Dị)
    14
  82. Sơn hành (Đỗ Mục)
    23
  83. Tái kinh Hồ Thành huyện (Đỗ Tuân Hạc)
    7
  84. Tam niên biệt (Bạch Cư Dị)
    11
  85. Tảo thu độc dạ (Bạch Cư Dị)
    17
  86. Tạp thi kỳ 1 (Vương Duy)
    26
  87. Tặng biệt kỳ 1 (Đỗ Mục)
    18
  88. Tặng Uông Luân (Lý Bạch)
    19
  89. Tẩu Mã xuyên hành, phụng tống Phong đại phu tây chinh (Sầm Tham)
    11
  90. Tây Hà dịch (Nguyễn Du)
    7
  91. Thạch Hào lại (Đỗ Phủ)
    16
  92. Thanh bình điệu kỳ 1 (Lý Bạch)
    39
  93. Thanh minh (Đỗ Mục)
    32
  94. Thi (Bổng kiếm bộc)
    6
  95. Thiên tịnh sa - Thu tứ (Mã Trí Viễn)
    2
  96. Thu tứ (Trương Tịch)
    13
  97. Thục đạo nan (Lý Bạch)
    4
  98. Thục trung cửu nhật (Vương Bột)
    18
  99. Thương tiến tửu (Lý Bạch)
    33
  100. Tòng quân hành (Dương Quýnh)
    17
  101. Tòng quân hành (Lệnh Hồ Sở)
    13
  102. Tòng quân hành kỳ 1 (Vương Xương Linh)
    15
  103. Tống biệt (Sơn trung tương tống bãi) (Vương Duy)
    19
  104. Tống Lương Lục tự Động Đình sơn (Trương Duyệt)
    16
  105. Tống Vũ Văn Lục (Thường Kiến)
    14
  106. Trì thượng (Bạch Cư Dị)
    34
  107. Trúc lý quán (Vương Duy)
    24
  108. Trùng quá Hàng Châu đăng lâu vọng nguyệt trướng nhiên hữu hoài (Úc Văn)
    2
  109. Trường Can hành kỳ 1 (Thôi Hiệu)
    18
  110. Trường Can hành kỳ 2 (Thôi Hiệu)
    15
  111. Tuế mộ quy Nam Sơn (Mạnh Hạo Nhiên)
    18
  112. Tuyệt bút (Tùng Thiện Vương)
    8
  113. Tự quân chi xuất hĩ kỳ 2 (Trương Cửu Linh)
    29
  114. Tương tư (Vương Duy)
    27
  115. U hận thi (An Ba phường nữ)
    5
  116. Văn thiền (Đỗ Mục)
    7
  117. Vọng Lư sơn bộc bố (Lý Bạch)
    35
  118. Vô gia biệt (Đỗ Phủ)
    7
  119. Xích Bích hoài cổ (Đỗ Mục)
    23
  120. Xuân dạ Lạc thành văn địch (Lý Bạch)
    26
  121. Xuân đán (Chu Văn An)
    16
  122. Xuân giang hoa nguyệt dạ (Trương Nhược Hư)
    18
  123. Xuân hiểu (Mạnh Hạo Nhiên)
    41
  124. Xuân nhật sơn trung hành (Bùi Duyệt)
    3
  125. Xuân oán (Kim Xương Tự)
    32
  126. Xuân tịch lữ hoài (Thôi Đồ)
    18
  127. Xuân tứ (Lý Bạch)
    34
  128. Xuất đô môn (Phan Chu Trinh)
    5
  129. Xuất tái kỳ 1 (Vương Xương Linh)
    18
  130. Yên ca hành (Cao Thích)
    7
  131. Yến thành đông trang (Thôi Mẫn Đồng)
    11

 

 

Ảnh đại diện

Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Người thơ ở xứ mộng mơ

Dẫu có thời lực lượng viết trẻ ở đất Thần Kinh khá hùng hậu, với những cái tên như Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà… Tôi cứ cảm giác như các tác giả này mãi không chịu khác đi. Quẩn quanh mãi với “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Có lẽ Nguyễn Lãm Thắng là cái tên bứt lên được khỏi dàn đồng ca ấy, thoát khỏi lối mòn quen thuộc, và cựa quậy đến cùng với thơ...

1. Huế trước giờ vẫn được xem là xứ sở của thơ. Vua làm thơ. Quan làm thơ. Và dân làm thơ. Một dì bán nước mía ở cầu ngói Thanh Toàn có thể tự biên tự diễn với thơ mình cả ngày không hết. Cố nhà thơ Phương Xích Lô ngoài những cuốc xích lô mưu sinh, rảnh chút là có thơ hay.

Dường như ở đây người ta thở cũng có thể ra thơ. Nhiều tác giả không sống với Huế, chỉ đi qua hoặc tương tư thôi, thoáng chốc thôi, cũng để rớt lại cho nền thi ca Việt những tuyệt phẩm. Không tin cứ hỏi trong gia sản thơ của các thi sĩ như Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Thu Bồn, Nguyễn Duy... thì rõ ngay.

Xuyên suốt chiều dài thời gian, từ Phú Xuân trước đây đến Huế ngày nay, mảnh đất này thiếu gì thì thiếu, chắc chắn không thiếu thi sĩ. Thi sĩ xứng tầm với Huế cố đô, với Huế di sản, với dòng chảy thi ca dân tộc, chứ không phải mức độ thi sĩ bế quan toả cảng đóng cửa bảo nhau. Tuy nhiên, đến thế hệ làm thơ 7X, cho tới lúc này, độ tuổi từ 36 đến 46 rõ ràng đủ để chín nẫu rồi, thì hình như thơ Huế đang bàng bạc đi. Bàng bạc như sương khói dòng Hương lúc chiều xuống từ phía đồi Vọng Cảnh.

Dẫu có thời lực lượng viết trẻ ở đất Thần Kinh khá hùng hậu, với những cái tên như Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà… Tôi cứ cảm giác như các tác giả này mãi không chịu khác đi. Quẩn quanh mãi với “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Có lẽ Nguyễn Lãm Thắng là cái tên bứt lên được khỏi dàn đồng ca ấy, thoát khỏi lối mòn quen thuộc, và cựa quậy đến cùng với thơ.

2. Trước khi “cựa quậy”, Nguyễn Lãm Thắng được biết đến là một trong những giọng thơ đẹp viết cho học sinh - sinh viên, râm ran với mùa chữ ngọt, cùng Đàm Huy Đông, Bình Nguyên Trang, Đinh Thu Hiền, Đường Hải Yên…

Thời gian gần đây, một số hiện tượng thơ trẻ nổi lên, làm thị trường sách vốn ảm đạm trở nên sôi động. Các ấn bản thơ thành best seller. Độc giả trẻ mua ồn ào, đọc ầm ĩ. Nhưng hình như đấy chưa phải là thơ, chỉ là những tản văn/ tản mạn/ suy nghĩ vụn được ngắt câu xuống dòng. Ý nghĩ đơn giản. Câu chữ đơn điệu. Xúc cảm đơn sơ.

Đọc vào, cảm giác người viết chưa có lao động chữ. Hay có lao động, mà chưa tới? Thế hệ thơ 7x, trong đó có Nguyễn Lãm Thắng, không thế. Ở họ có lao động chữ, với những câu thơ ngập tràn thi ảnh, giàu xúc cảm và nhạc tính.

Có lẽ không mấy sinh viên ngữ văn ở Huế lại không thuộc vài câu thơ trong tập Điệp ngữ tình, tập thơ đầu tay của Nguyễn Lãm Thắng. Những câu thơ hoặc trong veo hoặc buồn vu vơ của tuổi mới lớn được diễn đạt bằng thứ ngôn từ kĩ càng, chau chuốt, giàu hình ảnh, và lạ hoá vốn từ đã cũ, như: “Anh gom cô đơn nối lại những giọt buồn/ Trong đôi mắt chiêm bao của từng đêm giông bão/ Cái rét gánh tương tư về trong lảo đảo/ Từng giọt mưa trò chuyện với cơn mê”, hay “Nơi anh sống lối về thơm hoa cỏ/ Những con đường dung dị không tên/ Anh nằm nghe xanh mùa lên tiếng thở/ Từ trong hồn phố nhỏ thân quen”, rồi “Bâng khuâng gió chạm sân trường cũ/ Nắng đã thay mùa xanh biếc xanh/ Con bướm ngày xưa không đến nữa/ Nỗi buồn ghế đá cứ vây quanh, hoặc nữa: “Sợi khói buồn thơm những nụ hôn/ Chiều cướp vội bay theo đàn gió lạ/ Mùa đổi dạ lá run cành hối hả/ Anh khai sinh cho đá giọt thơ mềm” v.v…

3. Thực ra Nguyễn Lãm Thắng không phải người xứ Huế. Huế chỉ là nơi anh an cư. “Học trò trong Quảng ra thi/ Thấy o gái Huế chân đi không đành”. Câu ấy trúng phóc với Nguyễn Lãm Thắng. Chàng trai đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm làm sinh viên Sư phạm Ngữ văn Huế rồi thành giảng viên trong Khoa, kết duyên với o gái Huế cùng công tác tại Trường Đại học Sư phạm, thế là hết đường lui, cắm dùi ở lại mảnh đất, nói như nhà thơ Thu Bồn, là có “Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

Huế. Khúc giữa mềm mại và quyến rũ, trong Nam ra, ngoài Bắc vào, dường như người viết nào cũng một vài lần mắc cạn với mảnh đất này ít nhiều vài ngày. Và ở đấy, Nguyễn Lãm Thắng luôn hết mình với bạn văn nghệ. Mà không chỉ bạn văn nghệ. Cả những sinh viên cũng gần gũi, xem Nguyễn Lãm Thắng như người anh. Nửa đêm gà gáy hay giữa tháng ngâu mưa nhàu mặt mũi, bất cứ lúc nào ới là có anh lăn xả. Tôi nể Nguyễn Lãm Thắng bởi lẽ đó. Và nể anh một thì nể vợ anh mười.

Chẳng hiểu sao tôi cứ liên tưởng người vợ Nguyễn Lãm Thắng lấp lánh phẩm cách của vợ các cụ Văn Cao, cụ Phùng Quán, cụ Nguyên Hồng. Nếu không vậy, chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Lãm Thắng sống hết mình với bạn và hết mình với thơ.

4. Sau Điệp ngữ tình, tập thơ đèm đẹp thuở ban đầu lưu luyến ấy, Nguyễn Lãm Thắng cựa mình, lột xác và khác hẳn, như chẳng dây mơ rễ má gì với kiểu thơ áo trắng sân trường trước đây, với tập Họng đêm. Thơ tự do, bứt phá, cách tân cả về hình thức, ngôn ngữ biểu hiện lẫn chiều sâu suy tưởng.

Nhà phê bình trẻ Hoàng Thuỵ Anh nhận định: “Các con chữ sắc ngọt, trương nở qua các công đoạn cắt dán và lắp ghép, hình thành nên những điểm nhô, nhọn, tượng trưng, siêu thực. Do đó, những thi ảnh của Họng đêm vừa cất giấu những ám ảnh vô thức, vừa đầy lí trí, gợi nhiều luồng tiếp nhận. (…) Với Họng đêm, Nguyễn Lãm Thắng thực sự đã minh chứng được vị trí của mình đối với thơ trẻ đương đại.”

Tiếp nữa là cuộc lội ngược dòng về lục bát, với tập Đầu non cuối bãi. Đọc 54 bài thơ, tưởng chừng Nguyễn Lãm Thắng làm thơ lục bát chẳng cần chút cố gắng hay đầu tư gì. Cứ tự nhiên như không. Lục bát chảy. Chảy trước mắt Nguyễn Lãm Thắng. Và anh lấy giấy ra hứng. Chảy từ đường phố vào. Chảy từ ngôn ngữ nói vào. Mà ngọt. Mà êm ru.

Người đọc dễ vấp phải những câu thơ kiểu ấy, như “Thưa em, anh biết chết liền/ Bàn tay năm ngón làm phiền… bàn tay”, hay “Một nghèo cộng với một nghèo/ Níu nhau, ta cõng qua đèo đức tin”, rồi “Nắng loang ướt lá bồ đề/ Tiếng chuông đột quỵ bên lề hoàng hôn”, và “Trời mang mang, đất mang mang/ Một đêm nằm nhớ văn lang quá trời”. Thi sĩ Du Tử Lê gọi Nguyễn Lãm Thắng là “Người thi sĩ trẻ tuổi có những ngôn ngữ đường phố trong lục bát, cho tôi niềm hân hoan. Hạnh phúc. Mới”.

Từ Điệp ngữ tình đến Họng đêm rồi Đầu non cuối bãi, là đi từ mới lớn mộng trắng trong đến cách tân đương đại và trở về làm sáng truyền thống. Nhiều người trẻ đi như vậy, không riêng gì Nguyễn Lãm Thắng.

Tất nhiên, trên “lối mòn hoa cỏ” ấy, đi đứng cụ thể ở mỗi người là khác nhau. Nhưng thoát xác, trở lại trong veo với thiếu nhi, thì chưa nhiều nhà thơ làm, và làm có dấu ấn, nhất là vài năm gần đây. Tập thơ Giấc mơ buổi sáng gồm 333 bài thơ thiếu nhi của Nguyễn Lãm Thắng khiến nhiều người bật ngửa. Trong trẻo. Hồn nhiên. Dễ thương. Nhiều bài thơ được nhạc sĩ Trương Pháp phổ nhạc, đoạt giải ở các cuộc sáng tác nhạc cho thiếu nhi, trẻ em hát véo von suốt ngày.

5. Sự tài hoa của Nguyễn Lãm Thắng không chỉ toát ra theo bề mặt chữ mà còn toát ra từ… miệng. Trong bất cứ cuộc gặp gỡ vui vẻ nào, chén trước chén sau là anh nói thơ, nói gì cũng câu sáu câu tám. Tất cả đều có thể ca vọng cổ. Giọng Quảng đọc thơ đã hùng hồn, dẫu với nhiều người phải cần phiên dịch, ca vọng cổ lại càng mùi và… cuốn.

Hồi tôi còn ở Bà Rịa - Vũng Tàu, hằng năm Nguyễn Lãm Thắng đều vào Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu dạy lớp liên thông đại học theo dạng liên kết với Đại học Huế. Mỗi lần anh vào anh em lại ngồi với nhau. Nhâm nhi vài ly. Nhâm nhi chuyện Huế. Nhâm nhi chuyện văn nghệ. Cách Nguyễn Lãm Thắng ngồi giữa bàn nhậu, khiến người xa lạ thành gần gũi, người mới quen thành thân thiết, và người đã biết thành tri kỉ. Thơ văn xoá nhoà mọi khoảng cách. Chữ nghĩa kéo mọi người về cùng một phía. Và Nguyễn Lãm Thắng phiêu bồng theo miền chữ.

Sau cùng, tôi muốn nhắc đến mấy câu thơ Nguyễn Lãm Thắng tự hoạ về mình ngay từ thuở ban đầu cầm bút, rằng: “Tôi vẽ mặt tôi với màu da gió rét/ Ngoài kia còi tàu giục giã cuộc đi/ Tôi hong chân dung bằng hơi rượu nóng/ Khói thuốc bềnh bồng mở cõi thiên di…” Đến giờ, sau biết bao lao lung và chấp chới, tôi vẫn tin anh tự hoạ về mình trúng quá. Cuộc đi và thiên di của anh là đi vào thơ và thiên di theo thơ. Bởi vậy, tôi gọi Nguyễn Lãm Thắng là người thơ ở xứ mộng mơ!


Văn Thành Lê
08:37 27/09/2016
45.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Lãm Thắng và sự sống được nuôi bằng cái chết

Từ tập thơ đầu tay – Điệp ngữ tình cho đến nay, thơ Nguyễn Lãm Thắng đã có sự lột xác hoàn toàn. Cái giản dị, mộc mạc, đằm thắm giờ đây được hoán đổi bằng những vần thơ tự do, triết lý, bằng những hình ảnh siêu thực, những cuộc kết nối ngôn từ dư ba.

Mỗi nhà thơ đều có sở trường, sở đoản trong việc xây dựng hình ảnh thơ. Với Nguyễn Lãm Thắng, anh thường dùng hình ảnh để luận bàn về chính nó. Tìm được hình ảnh mấu chốt trong bài thơ, cơ hội nắm bắt dòng chảy triết lý càng lớn. Tất nhiên, nhà thơ không dễ dàng nói A là A, mà thường khúc xạ A qua nhiều lăng kính. Nhà thơ khúc xạ hình ảnh của mình bao nhiêu thì ý nghĩa mà nó mang đến có thể là vô cùng, nghĩa là hình ảnh không bất động, xơ cứng mà luôn sống động. Hơn nữa, chiều sâu của hình ảnh thơ mới là tấm gương đích thực cho thế giới thực tại. Hình ảnh “trở thành một con đường tắt nối hai thực tại, một đoản mạch loại bỏ những liên hệ duy lý nói lên những nhận thức mới lạ về thế giới hiện tại”. Trong thơ Nguyễn Lãm Thắng, hình ảnh rất phong phú, đa dạng: về biển, về lũ trẻ, về loài côn trùng, về người đàn bà học vẽ, về lăng tẩm, bia mộ... Các hình ảnh đều thấm chất thế sự. Dáng vẻ trong xanh, thơ mộng của con sông bị đẩy lùi bởi lớp trầm tích: xác chết, nhịp thở của gái điếm, cuộc nhậu vô tội vạ... Hình ảnh phố chật chội người, sặc mùi than đá ong, nhà bia nằm chung với rác, inh ỏi còi xe, tiếng rao, nghẹt thở với nhiều công trình... như ngốn hết bầu không. Rừng nguyên sinh nay trở thành đất có chủ. Mọi người được tự do khai phá và kể cả việc làm thẻ đỏ cho rừng. Nhà thơ gọi đó là sự lẫn lộn thật khổng lồ:

ta tập mở mắt lần nữa để nhìn thế giới phía giác độ người mù
để thấy đằng sau câu chúc tụng là vết đâm tứa máu
để thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa
để thấy sự hoài nghi trong từng nụ hôn

vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu vú căng phồng sữa độc
ngày kéo dài hơn những vở tuồng phù phiếm
đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ
trục đất đang nóng dần trong tim ta
máu đang bùng lên ngọn lửa
(Máu đang bùng lên ngọn lửa)
Các hình ảnh thơ mang giá trị riêng tuỳ theo ý đồ của người nghệ sĩ. Xuyên suốt hành trình thơ tự do của Nguyễn Lãm Thắng, hình ảnh cái chết được lặp đi lặp lại khá nhiều. Chết là quy luật tự nhiên. Không ai thoát khỏi vòng quay nghiệt ngã của số phận. Vấn đề là chúng ta có vượt qua được một cách thoải mái hay không? Vì cuộc đời này chỉ là bến dừng chân, bến đỗ, là cõi tạm, chỉ có thế giới bên kia mới là thực, là vĩnh cửu. Khi ấy chúng ta mới thực sự sống. Nói như nhà soạn nhạc W.A.Mozart: “Tôi cảm ơn chúa đã độ lượng ban cho mình cơ hội để hiểu rằng cái chết là chìa khoá mở cánh cửa dẫn tới chân hạnh phúc”. Viết về cái chết, Nguyễn Lãm Thắng hoàn toàn tự chủ, bản lĩnh:
tôi sở hữu hàng ngàn cánh đồng bạt ngàn nỗi buồn

hàng vạn ngôi mộ gió
tôi tin vào điều đó
như tin vào cái chết của mình

tôi vĩnh viễn sở hữu cái chết ấy
(Sở hữu)
Sự tự thức bản ngã giúp anh sở hữu được nó. Nói thế, không phải anh lẫn tránh, lo sợ hay vô trách nhiệm mà thực ra đó là cách anh giữ cho tâm hồn mình không bị hoen rỉ, biến chất trước thế cuộc đầy bất ổn: chiến tranh, thù oán, giả dối... Anh nói đến cái chết để đoạn tuyệt với thế giới rỗng rễnh, lên án, phủ nhận nó. Và anh sẵn sàng đón nhận cái bi thương: tôi biết tiết kiệm những nỗi đau của mình/ để biến nó thành những quả đồi mang hình nấm mộ/ chôn những linh hồn vất vưởng (Tiết kiệm). Hình thức tiết kiệm đặc biệt ấy chỉ có ở những con người giàu lòng trắc ẩn như Nguyễn Lãm Thắng.

Thơ ca non giống sẽ chịu số phận chết yểu. Người nghệ sĩ cần sinh những đứa con đủ ngày, đủ tháng. Nếu không, chúng chỉ chóng vánh như cơn mưa rào tháng sáu. Bằng những lời thành tâm, anh bày tỏ chính kiến: bạn đâm vào tim tôi bằng những lời khen ngọt như đường phèn/ bạn bảo tôi hãy sống/ và hồn nhiên sống/ đừng âu lo/ buồn bực/ hãy an phận/ an phận tột cùng/ để ăn tròn ba bữa/ và gắng sức đẻ ra những câu thơ cũ mèm nịnh bợ/ vâng/ cảm ơn bạn/ bạn hãy xem tôi đã chết từ lâu/ thế nhé! (Bạn ảo). Ý thức được sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ, anh xem cái chết của bài thơ cũng chính là cái chết của mình:
những con chữ run lên đợi ngọn lửa hoá vàng
tôi thắp nghìn chung rượu
mời những sinh linh thơ thiếu tháng
đã chết trong bào thai sự thật
[sự thật thường yểu mệnh hoặc bị chối bỏ như một quái thai]

những giọt mưa
vấp tiếng kinh cầu nguyện
lăn lóc trên linh hồn bạch lạp
tôi gục đầu
tưởng niệm chính tôi
đưa tiễn một phần đời mình xuống mộ!
(Khóc cho bài thơ chết non)
Cái chết ám ảnh người thơ. Chính anh đã viết: cái chết tồn tại trong ta. Anh chấp nhận, trân trọng và sắp đặt cái chết cho mình. Anh nói về cái chết trong tâm thế vô tư như là sự thách thức, tuyên chiến với cuộc sống này – một cuộc sống hoang hoác, đầy những cạm bẫy. Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm tin bị xâm thực, anh thành thực: tôi sợ những chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa). Anh thẳng thừng tẩy chay việc lặp lại chính mình: câu thơ mọc sợi tóc buồn trên truông già khi vết cắn/ còn bầm đen của nòi rắn độc/ gió róc cơn mê khủng/ gió xoáy âm khí/ ngày đã chết vào đêm vũng lầy xương trắng trong chiếc hộp bình minh rỗng tuếch/ sự lặp lại đớn hèn! (Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng). Vậy, Nguyễn Lãm Thắng không tìm đến cái chết để trốn chạy, lánh đời, ngược lại, nó minh chứng cho sự nổi loạn, dấn thân vào thế giới thực này bằng chính bản ngã của anh. Nói như Albert Camus: Tôi nổi loạn, vậy tôi hiện hữu. Xét theo ý kiến của Camus, có thể coi Nguyễn Lãm Thắng là một thi sĩ nổi loạn. Dùng cái chết để tỏ sự bất mãn và chống lại sự suy về thời cuộc. Điều đó khiến thơ anh có cái bản lĩnh, tố chất của một cái tôi biệt dị và có phần ngông. Mà sự đời cái biệt dị luôn đi liền với cái ngông. Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc bạch cái tôi của mình. Một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước thực trạng những tệ nạn của xã hội, song anh không đánh mất chính mình. Sống ở thế giới này mà Nguyễn Lãm Thắng đã với đến được khoảng không gian của thế giới bên kia:
ròng rã những tang thương trôi theo từng bước chân
mỗi ngày tôi đưa tang một lần
mỗi đêm tôi đưa đám tang tôi về khư mộ
nơi đó tôi nghe tiếng trẻ khóc oằn trên vũng đói
nơi đó tôi nghe âm thanh máu đổ
nơi đó tôi nghe bốn mùa tạo hoá chỉ còn một mùa đông rởn xương
nơi đó tôi nghe những bi kịch đang hấp hối
nơi đó tôi nghe đất và nước quằn quại bi thương bởi căn bệnh ung thư não nơi đó tôi nghe ròng rã tiếng ma cười...
(Ròng rã nơi đó...)
Từ việc mổ xẻ cái chết của chính mình, nhà thơ phản chiếu hiện thực của thế giới này. Nếu đứng trong cảnh thực để nhìn đời thực có lẽ chưa thể khái quát hết, vì thế, Nguyễn Lãm Thắng đứng trong cõi âm, phóng mình vào cõi âm mà chiếu ra mới thấy hết từng lớp màn sương bao phủ của thế thái nhân tình. Nhờ vị thế ấy, thơ anh trở nên ma quái, hun hút những hố sâu của sự liên tưởng. Người đọc có thể nhận dạng qua một số tiêu đề như: Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ; Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng; Đêm nở ra hoa ấm; Bài hát buồn của bầy chim tổ rách; Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ; Ở một góc phố câm có cơn mưa điếc... Nhiều câu thơ khai thác hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng; đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ; bóng đêm gợn lên thuỷ triều đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; trên đầu lưỡi ban mai quyện dính những sợi tơ mướt, câu thơ mỏng như cánh ve non trần truồng hơi thở... Câu chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm kiểm soát của người đọc. Không chỉ thế, tránh sự đơn điệu khi nói về cái chết, Nguyễn Lãm Thắng còn sử dụng rất nhiều từ cùng trường: cõi tĩnh (những tín hiệu rú lên trong cõi tĩnh), mộ địa (những con đường mộ địa), huyệt mộ (nỗi buồn cứ kéo dài ra khi huyền thoại một loài dơi bay qua huyệt mộ), âm hồn (phố/ như bàn tay âm hồn điên loạn), cô hồn (chiều muộn cô hồn/ bầy chim sẻ hoảng hốt giữa chiêm bao), linh hồn (tôi vác linh hồn xuống dốc), rỉ máu (chập choạng vầng trăng rỉ máu dậy thì), ma (mặt người lẩn vào cơn hen suyễn ma trơi; cái chết vực dậy bóng ma trong suy nghĩ loài người)… Một số dẫn chứng trên đã chứng minh sự tinh tế và tài hoa của một hồn thơ đất Quảng.

Dẫu rằng sự sống thơ anh được nuôi dưỡng từ cái chết, là một cõi về cho tôi mầm sống có phần bi thương nhưng là cái bi thương thăng hoa cốt cách, nhân phẩm của người nghệ sĩ. Hơn nữa, quyền năng đặc biệt của nhà thơ, là tạo ra một vật không thể nào có kiểu mẫu (André Frénaud). Trước cám cảnh thế sự, chọn cho mình một lộ trình như thế, Nguyễn Lãm Thắng đã khẳng định phong cách riêng cho mình. Đối với anh, khoảng cách sống và chết, yêu và ghét luôn rạch ròi: câu thơ cõng lời ru trong bể lửa hun từ nước mắt/ lặng lẽ đi/ bia mộ nào khắc ghi được tiếng thở/ bởi hơi thở cuối cùng là di ngôn rạch ròi yêu và ghét (Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng). Như vậy, cái chết là kiểu mẫu thiết kế riêng cho thơ Nguyễn Lãm Thắng – một thi sĩ hết mình vì nghệ thuật và cuộc sống.


Đồng Hới, ngày 7-6-2011
Hoàng Thuỵ Anh
45.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ Nguyễn Lãm Thắng và những sự thật nghiệt ngã

Nhà thơ, Thạc sĩ Hán Nôm Nguyễn Lãm Thắng sinh 14/8/1973, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên-Huế, Trưởng Gia đình Áo trắng Huế. Hiện anh là Giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học sư phạm Huế.

Sau khi học xong ĐHSP Huế anh đã từng làm nhiều nghề để kiếm sống, sau đó anh mới về giảng dạy. Chính thời gian anh lăn lộn trong Nam ngoài Bắc để kiếm sống ấy nó đã trở thành vốn sống, vốn kinh nghiệm, thành nguồn cảm xúc, đem đến cho thơ anh một giọng điệu khác lạ, tạo ra một nét phong cách riêng không thể lẫn lộn với bất cứ một nhà thơ nào. Ngay trong chính hành trình thơ của anh cũng có sự chuyển biến, chuyển biến gần như là đối lập. Nếu ở tập thơ đầu tay Điệp ngữ tình (NXB Hội Nhà văn, 2007) những bài thơ mộc mạc, giản dị, da diết về tình yêu và sự sống thì đến những bài thơ anh sáng tác gần đây nó không còn đằm thắm như thế nữa. Ngôn từ giờ đây đã có sự “nổi loạn”- câu thơ ngắn, dài, liền mạch, đứt quãng tạo nên những khoảng lặng, khoảng trống; đôi lúc gây khó hiểu cho người tiếp nhận. Nhưng chính điều này đã tạo nên phong cách và hồn thơ Nguyễn Lãm Thắng, một hồn thơ đau đáu nỗi niềm, một sự ám ảnh của cuộc sống nhân sinh. Tất cả mọi khía cạnh của đời sống xã hội được đưa vào thơ anh ngồn ngộn, dạt dào tuôn chảy theo dòng cảm xúc của một con người có một lối sống nội tâm độc đáo.

Đối diện với anh, nói chuyện với anh ta bắt gặp một con người hiền lành, một đôi mắt buồn với cái nhìn xa xăm. Nhưng bao giờ anh cũng nở một nụ cười phúc hậu. Có thể nói ẩn đằng sau nụ cười ấy, đôi mắt ấy là những suy tư, trăn trở, dằn vặt, có cả sự đau đớn của một công dân sống hết mình vì cái đẹp, cái thiện, cái cao cả của cuộc sống này.

Bằng cách sử dụng từ ngữ, tứ thơ và những nét mới trong thơ anh, Nguyễn Lãm Thắng đã tạo được một nét dị biệt và có phần ngông. Nói như Hoàng Thuỵ Anh: “Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc lộ cái tôi của mình, một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước những thực trạng xã hội, song anh không đánh mất chính mình”.

Với đôi mắt nhạy cảm của người nghệ sĩ anh nhìn cuộc sống này ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh những cái tốt đẹp người ta vẫn ca tụng hằng ngày anh còn nhận ra những cái xấu, những mặt trái, sự oái ăm, nghịch lý của cuộc đời. Nhìn cuộc sống ở trần thế này chưa đủ anh đã tự đưa mình vào thế giới cõi âm để nhìn nhận cho toàn vẹn, đủ đầy những tiêu cực, hạn chế, yếu kém, bất công... của cuộc sống thực tại.

Vì vậy, hình ảnh cái chết, bia mộ, lăng tẩm được nói đến nhiều trong thơ anh cũng có nguồn cội sâu xa của nó. Đúng như Jakobson nói: “Thơ là sự trở lại hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc... thơ là sự trùng điệp liên tục, điệp trùng gây day dứt, khắc khoải đến đau đớn, nhức nhối hoặc gợi những giấc mơ xa”.

Anh nói đến cái chết, sẵn sàng chuẩn bị đón nhận nó không phải là anh lẫn tránh, lo sợ, trốn chạy nó mà theo anh đó là cách tốt nhất để giữ cho tâm hồn không bị hoen rỉ, bào mòn, biến chất trước cuộc sống đầy những biến động, bon chen, cám dỗ và đầy những cạm bẫy!

Tôi biết tiết kiệm những nỗi đau của mình
để biến nó thành những quả đồi mang hình nấm mộ
chôn những linh hồn vất vưởng
(Tiết kiệm)
Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm tin bị xâm thực, anh đau xót thốt lên: tôi sợ những chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa) Những sự thật hết sức nghiệt ngã của cuộc sống này đã được nhà thơ phản ánh một cách khá sinh động trên nhiều phương diện, khía cạnh, sự việc. Đó có thể chỉ đơn giản là: một tiếng khóc trên đồng, một dòng sông, một góc phố, những linh hồn trôi, trái tim mùa cũ, trong cơn mưa vội, bài hát buồn của bầy chim tổ rách, lời ru của người cha trẻ, chuyển động của thời gian, những oan hồn hoá đá, bi kịch, trước biển, một chiều nghĩa trang, cỏ mọc thành giếng cũ, một chiều nắng xế miền Trung, có thể nói nhiều về cái không thể nói, thấy lạnh trong hồn...

Tất cả đều đi vào thơ anh như là sự giãi bày những cảm xúc, những nỗi lòng, những tâm sự; có lúc đó là những lời độc thoại với chính mình như một sự chiêm nghiệm, suy ngẫm, soi xét...

Chỉ ra được như vậy theo tôi đó là một điều rất đáng quý, đáng trân trọng, chỉ ra rõ như thế để chúng ta biết cách mà sửa chữa. Và sửa để mục đích nhằm thanh lọc, loại bỏ, hạn chế, khắc phục cái xấu, cái sai, cái nhược điểm... làm cho cuộc sống ngày càng tiến bộ hơn, ý nghĩa hơn, đáng sống hơn.

Dẫu biết rằng, việc anh nói chân xác, thực quá, có lúc gọi đích danh sự việc.... Có người sẽ cho anh là thế này thế nọ. Điều này cũng dễ hiểu vì văn chương vốn dĩ muôn đời là thế, nó phải chịu sự phán xét của bạn đọc, của xã hội, của sự khen chê, những lời ca ngợi hay những quy kết... Nhưng chúng ta tin chắc rằng anh không hề dựng chuyện, tô vẽ thêm mà đó là những sự việc có thật được anh phản ánh bằng thơ.

Chẳng hạn trong bài Khi lũ trẻ lớn lên:
chúng không biết màu xanh của mùa xuân khát vọng
nhưng chúng biết màu xanh của những hình xăm trên ngực trên lưng trên
đùi trên rốn trên mông
chúng không biết khúc tấu ca mùa hè của loài ve ngàn dặm
nhưng chúng biết những nhạc khúc yểu mệnh cùng với ca từ sáo rỗng
nhạt phèo như nước ốc
chúng không biết lá mùa thu vàng hay đỏ
nhưng chúng biết tóc vàng lốm đốm mắt xanh môi đỏ hợm người
chúng không biết ruộng đồng ngày mưa tháng nắng ướt dầm mưa đông gió
rét
nhưng chúng biết say sưa trên cánh đồng web để cày xới game online chát
chít sex và “yêu”

......................
rồi chúng lớn lên
mơ hồ những địa danh lịch sử
mơ hồ nguồn cội Rồng Tiên
mơ hồ chính mình
mơ hồ trong từng hơi thở
bởi sự thật tìm đâu trong lớp lớp mơ hồ?
Bài thơ phác hoạ rõ nét những thực tế hết sức đáng buồn của một bộ phận thế hệ trẻ hôm nay- những người được coi là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng rường cột của nước nhà. Chính họ có đủ mọi điều kiện để học tập, trau dồi tri thức, làm được nhiều việc có ích khi đang thừa hưởng mọi điều tốt đẹp. Ấy vậy mà họ đã đánh mất đi nhiều thứ, những điều căn bản cần phải có thì họ lại không quan tâm. Ngược lại họ chú ý đến cách ăn chơi đua đòi, xăm mình, nhuộm tóc, học đòi những kẻ côn đồ, đầu đường xó chợ... Chúng có biết đâu nỗi vất vả cơ cực của bố mẹ ông bà? Chúng đã đánh mất đi cái gọi là bản sắc, là truyền thống, là cốt cách, tinh hoa của dân tộc.... Chúng yêu đương theo kiểu mì ăn liền, sống gấp, sống vội và chúng chỉ biết sống để hưởng thụ, sống ngày hôm nay mà không cần biết cho ngày mai! Đau xót biết nhường nào, khi:
khi lũ trẻ lớn lên không thèm biết hai từ đất nước
chúng chỉ biết tìm cái nghề trong cái nghĩa làm thuê
bởi bằng cấp cũng chỉ là món hàng đem ra chợ bán
Đất nước hai tiếng ấy nó thiêng liêng làm sao! Ông cha ta mấy nghìn năm nay đã đổ biết bao máu xương cũng vì nó. Vì lòng tự tôn, vì ý thức giống nòi, vì mình là con Rồng cháu Lạc phải sống đúng với lương tâm và trách nhiệm. Ấy vậy mà một bộ phận thanh thiếu niên vì đua đòi ăn chơi lêu lỏng nên bỏ học giữa chừng, thiếu sự quản lý của gia đình, nhà trường và xã hội dẫn đến hậu quả là làm nhiều việc phạm pháp như: cướp giật, đâm chém, nghiện ngập và rất nhiều vụ vi phạm pháp luật đau lòng khác xảy ra...con số thanh thiếu niên phạm tội ngày càng gia tăng. Đó là nỗi đau đấy chứ, gánh nặng đấy chứ?

Một sự thật nghiệt ngã nữa đó là việc chạy chức, chạy quyền, mua bằng cấp đã và đang diễn ra. Bằng cấp giống như một món hàng rao bán chợ, bằng Đại học, thậm chí bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ cũng được bán!

Một bộ phận nhỏ cán bộ vì nhiều lý do cũng tranh thủ kiếm cho mình một cái bằng cho nó “oách” nhằm phòng thân. Có vị đang giữ cương vị chủ chốt ở một vài cơ quan, đơn vị chưa có bằng THPT nhưng đã có đến mấy bằng Đại học. Có vị chưa học một ngày, một giờ nào ở trường vẫn có bằng Tiến sĩ. Một số Tiến sĩ giấy ở nước ta như báo chí đã đưa tin là một minh chứng.

Nguyễn Lãm Thắng đã có sự liên tưởng khá thú vị trong “Thí điểm hay trò chơi” từ chuyện những tin nhắn điện thoại tác giả đặt ra nhiều vấn đề lớn cần suy ngẫm về sự thay đổi xoành xoạch của nền giáo dục nước nhà.
Vẫn còn đó bệnh thành tích, một căn bệnh mãn tính đã và đang diễn ra ở mọi cấp, mọi ngành và để lại những hậu quả khôn lường...

Những cơn đại hồng thuỷ đã cướp đi rất nhiều mạng người hằng năm, những cơn lũ bất chợt từ thượng nguồn đổ về, cảnh tang tóc đau thương, mất đi nhà cửa người thân, người còn may mắn sống sót phải cố bám trụ để mà sống. Thậm chí có những cơn đại hồng thuỷ đi qua, có nơi bị xoá sạch...
Cơn hồng thuỷ dồn lên cổ họng
mặt đất tắt thở
những con sông đồng loã
cấu kết dìm kiếp sống
những mảnh đời sâu đo
Ngọ nguậy trong biển lũ
quét

quét chỉ còn lại vạt đất trống
không người khóc
(Những con sông cướp máu phố phường làng xóm)
Vì sao vậy? Rừng thượng nguồn giờ bị tàn phá dữ dội, rừng giờ đã có chủ, người ta đã chặt phá, đốt sạch rừng nguyên sinh để thay vào đó là việc “trồng cây gây rừng”? Nhà thơ gọi đó là:
Sự lẫn lộn thật khổng lồ
giữa đốt rừng
và trồng rừng
........................
núi rừng là của chung cho mọi người dân
là nơi kiếm củi, làm rẫy, hái sim, và chôn người thân...
mà bây giờ
núi rừng quê tôi đã có (thẻ đỏ)
dễ hiểu hơn là đã có chủ
(Rừng ơi ta khóc cho rừng)
Tận trong sâu thẳm tâm hồn, trái tim một con người sống thành tâm anh thảng thốt:
Ta tập mở mắt lần nữa để nhìn thế giới phía giác độ người mù
để thấy đằng sau câu chúc tụng là vết đâm tứa máu
để thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa
để thấy trong sự hoài nghi trong từng nụ hôn

vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu vú căng phồng sữa độc
ngày kéo dài hơn những vở tường phù phiếm
đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ
trục đất đang nóng dần trong tim ta
máu đang bùng lên ngọn lửa
(Máu đang bùng lên ngọn lửa)
Ta cũng bắt gặp một sự thật, một sự thật quá ư đáng buồn, nói ra đến phát khóc trong Cuối năm và cảm giác tồn vong của lão Q
...........................

năm ngoái/ vào dịp tết/ có tiền cứu trợ cho những hộ nghèo đói/ thằng con trai lên xã từ 7 giờ sáng/ trưa quên ăn/ chờ mãi đến chiều/ nghe nói đoàn còn bận phát chẩn ở hai xã khác chưa về/ người nghèo đứng chờ chật cả sân uỷ ban xã/ khói thuốc bay lòng vòng ngột ngạt bao vây kiếp nghèo phận khổ/ rồi 8 giờ tối đoàn mới về/ mấy ông cán bộ còn nạt nộ la lối om sòm/ thôi cứ giả điếc giả câm giả lơ cho qua chuyện/ tội nghiệp đôi dòng nước mắt/ cứ rỉ ra từ hai con mắt đỏ hoe/ đêm nớ có người thức tới 2 giờ sáng mới về đến nhà/ nhận được đồng tiền cũng chảy máu con mắt/ tưởng rứa là êm chuyện/ ngờ đâu/ về nhà/ còn bị mấy chú cán bộ thôn (làng văn hoá) chặt bớt một nửa/ các chú còn doạ/ nếu không “tự nguyện” (chia sẻ) sẽ bị xoá tên khỏi danh sách người nghèo/ đành ngậm đắng nuốt cay mà chấp nhận/ dù chi nghèo cũng đã nghèo rồi/ âu cũng là của bổng trời cho...

Có lẽ chúng ta không cần bàn luận nhiều, những gì đã nói trong bài thơ đã rõ. Đau xót quá! Tủi nhục quá! Vẫn là chuyện miếng ăn, vẫn là cảnh đói nghèo thê thảm, vẫn là chuyện cán bộ ăn chặn của dân! Thiết nghĩ, những anh cán bộ như thế có còn là đầy tớ của nhân dân hay nhân dân là đầy tớ? Cán bộ mà đan tâm làm được những việc nhơ nhuốc đó thì làm sao dân tin? Hoá ra chính những việc làm bậy bạ, chính thái độ coi thường nhân dân, coi thường pháp luật, họ đã tự đánh mất danh dự và nhân phẩm chính mình.

Ai đã từng đi qua phố chắc chắn sẽ nhìn thấy những hình ảnh mà nhà thơ vẽ nên trong bài Góc phố. Dù rằng có lúc người qua đường sẽ cảm thấy quen thuộc với những hình ảnh, những âm thanh, việc làm ấy! Nhưng với những người có tâm hồn nhạy cảm, những người có trách nhiệm, họ sẽ nghĩ suy gì?

Những hình ảnh được phản ánh, được ghi lại trong bài thơ có phải là xã hội thực sự văn minh không? Những câu hỏi lớn đang đặt ra cho nhiều cấp, nhiều ngành, cho ý thức trách nhiệm của từng công dân trước yêu cầu của thời đại.

Đến bài Những câu hỏi thầm trong quán nhậu:
Bao nhiêu tiếng hô một
hai ba zô zô zô!
bao nhiêu tiếng cười tràn
trề gác quán bao nhiêu
em gái xinh đẹp hở
ngực hở rốn bao nhiêu
lời nịnh lời khen lời
chê sau lưng bao nhiêu
cái bắt tay hờ...
và bao nhiêu tờ hoá đơn đỏ?
Cũng là một sự thật 100%, nó đang diễn ra hàng ngày hàng giờ quanh ta đây thôi, dù rằng ai cũng biết nhưng lâu rồi cũng trở thành bình thường? Một sự bình thường nhưng lại nhức nhối! bởi đằng sau những cuộc nhậu, cuộc chơi vô tội vạ ấy, những tờ hoá đơn đỏ ấy chính là những sự giả dối, lọc lừa, một cuộc sống đầy những phù phiếm, lố lăng, hoang hoác, hỗn tạp, xô bồ... Họ có biết đâu rằng vẫn còn đó biết bao người dân, bao mảnh đời phải sống trong đói nghèo, vật vã, đau thương?

Trước sự biến đổi thế cuộc, những gì là ký ức là kỷ niệm đẹp một thời giờ nó đã trở thành dĩ vãng xa xôi, khó mà tìm lại được. Trong số những ký ức ấy, nhà thơ đau đáu nuối tiếc cho làng xưa của mình: nơi có luỹ tre xanh, có mái đình cổ kính, vòm nâu mái ngói, thờ Thành hoàng làng oai linh lẫm liệt, rất thiêng liêng, nghi ngút khói hương trong những ngày tế lễ xuân thu... Tất cả những điều ấy đã ăn sâu vào máu thịt, vào tiềm thức. Ấy vậy mà:
Qua gió bụi thời gian
nghẹn ngào dâu bể
làng mất tên
đình chùa tiêu thổ
những mả đống gò mồ nghĩa địa... còng lưng vào núi xa
leo lên mấy đồi mấy dốc
bia gãy đứt làm đôi
ma lên ngủ trên đồi
huyệt mộ nhường cho ngô lúa
chết rồi hồn phách không yên
nhường nhà mồ cho dự án quy hoạch cư dân
cho ruộng đồng cải tạo
rồi làng không còn làng
dẫu tên gọi mới là làng-văn-hoá...
(Ký hoạ làng)
Bên cạnh việc nói đến những hiện thực của đời sống Nguyễn Lãm Thắng còn vẽ lại bức chân dung tự hoạ về mình, về người thân với những gian truân vất vả, khổ đau, buồn vui lẫn lộn và quá khứ đau thương, bi thảm của những năm tháng còn trong khói lửa chiến tranh. Đó là nỗi đau của người cha mù không thấy mặt con ngay lúc chào đời, rồi những năm tháng tuổi thơ của tác giả sống trong nhọc nhằn, tủi cực và đói khát, sự ra đi không bao giờ trở lại của người của những người ruột thịt...

Để rồi từng cơn đau thắt ruột lại đến với anh, đã dắt anh vào những giấc ngủ ma/ những giấc ngủ chập chờn nửa mơ nửa thực/ gặp lại người anh ruột/ chết đã mười ba năm vì tai nạn giao thông ở Gò Vấp/ anh gặp lại người em chết đói năm 1977 không gặp mẹ lần cuối cùng/ khi mẹ về Đà Nẵng kiếm từng manh áo rách, bo bo/ anh gặp lại người cha già thương phế hơn 35 năm viết câu thơ lành lặn... (Từng cơn đau thắt ruột)

Vốn là một con người giàu lòng trắc ẩn Nguyễn Lãm Thắng chợt nhận ra mình còn nhiều điều dang dở chưa thực hiện được khi tuổi đời đã gần 40!
................
gần bốn mươi năm
chưa trọn một giấc mơ
tự xé mình ra
hai mươi năm mất ngủ
từng ngón tay dắt mình vào nấm mộ
những huyền thoại cuộc đời bóp nghẹt trái tim đau!

gần bốn mươi năm
râu tóc trẽn trơ màu
ngờ nghệch phố
lều bều bao nẻo chợ
giọng ly quê
nôm nồm lơ lớ
...................
băm sáu tuổi đầu
len lén ghé tai nghe
khuya xao xác dăm tiếng gà gáy muộn
và len lén nhìn mây trời gãy vụn
thực thực hư hư ảo ảo huyền huyền
...................
Rồi còn biết bao nhiêu sự thật nghiệt ngã khác của đời sống này được Nguyễn Lãm Thắng viết thành thơ. Ở đây trong khuôn khổ bài này người viết chỉ lấy một vài dẫn chứng minh hoạ mà thôi.

Nhìn chung, những bài thơ anh sáng tác ở giai đoạn sau này hầu như bài nào cũng đề cập đến những mảng hiện thực của cuộc sống đương đại, có sự liên hệ, kết nối giữa quá khứ - hiện tại và tương lai.

Nguyễn Lãm Thắng mổ xẻ nó dưới tư cách là người chứng kiến, nhìn thấy, cảm nhận, đau xót, cảm thông... nhiều khi anh ghê tởm và nguyền rủa nó. Chính những mảng tối đó nó ám ảnh anh, ám ảnh thơ anh, tâm hồn anh. Phan Ngọc đã rất có lý khi ông cho rằng: “Văn xuôi là tiếng nói của công việc, thơ là tiếng nói của thân phận con người”. Thơ Nguyễn Lãm Thắng đúng là tiếng nói của thân phận con người. Giữa cõi đời mênh mông, nhiều lúc anh cảm thấy chới với, anh tìm đến cái chết như là sự giải thoát, một sự giữ gìn tâm hồn, cốt cách, danh dự nhân phẩm theo cách của riêng anh. Những phận người bé mọn, những sự việc xảy trong cõi nhân sinh này cũng được anh phản ánh một cách thành thực như chính con tim anh mách bảo. Chúng ta dễ dàng tìm thấy trong thơ anh tần số lặp lại những từ nói về nỗi buồn, cái chết, bia mộ, nỗi đau, tiếng khóc, sự sống và cái chết, sự được mất, có-không, ánh sáng và bóng tối... Do vậy, nhiều bài ngôn từ cũng giản dị, dễ hiểu. Nhưng cũng có nhiều bài có sự so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị; thậm chí có khi gây sự khó hiểu cho công chúng thưởng thức. Ta có thể liệt kê ra một số nhan đề bài thơ như thế: Ở một góc phố câm có cơn mưa điếc, Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng, Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ, Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ, Đêm nở ra hoa ấm, Máu đang bùng lên ngọn lửa, Những khúc sông buồn trong cõi chết, trong bình minh đã có nhiều chiếc lá xanh rơi rụng, Bài hát buồn của bầy chim tổ rách... “Cùng với nó là nhiều câu thơ mang hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng; đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như ứ máu; bóng đêm gợn lên thuỷ triều đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; câu thơ mỏng như cánh ve non trần truồng hơi thở... Câu chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm kiểm soát của người đọc” (Hoàng Thuỵ Anh).

Hơn bất kỳ thể loại văn học nào khác, thơ tồn tại tính chủ quan của người nghệ sĩ nhiều nhất. Và chính cấp độ tầng bậc của các lớp nghĩa, ý nghĩa, tần số xuất hiện các thuộc tính đã làm nên nét riêng của từng nhà thơ. “:Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ một cách quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này” (Phan Ngọc). Và chính điều này đã làm cho thơ Nguyễn Lãm Thắng có nét dị biệt.

Phải là người mẫn cảm và có con mắt tinh đời như anh mới phát hiện ra những điều bất ổn ấy. Những điều chỉ có một con người thực sự yêu con người, yêu thương chính đồng loại, quan tâm đến sự sống này mới có thể nói lên thành thơ tha thiết, day dứt, đau đáu nỗi niềm thế cuộc và để lại những dư âm trong lòng bạn đọc.


Phú Yên, tháng 9/2011
Nguyễn Văn Hoà
Trường PT cấp 2-3 Xuân Phước, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên
55.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Lãm Thắng với chất thơ rặt Quảng

“Cứ hẹn miết, rồi không về, bắt mệt!/ Đợi với chờ, nghe ớn họng ông quơi!/ Hứa cho cố, để cuộc tình trớt quớt/ Mấy chục năm, ông lạc mấy phương trời?...” Nguyễn Lãm Thắng vì Thương hoài thương huỷ quê xứ mà làm nên giọng thơ đặc biệt...

Nguyễn Lãm Thắng vừa là bút danh vừa là tên thật, ngoài ra còn có các bút danh danh khác là Nguyễn Du Lãm, Nguyễn Trần Bảo Nghi, Nhật Quang… Anh sinh năm 1973, quê tại làng Tịnh Đông Tây, Đại Lãnh, Đại Lộc. Tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Huế năm 1998, hiện là giảng viên dạy Ngôn ngữ, Hán Nôm và Văn hoá Việt Nam, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế.

Tác phẩm đã in: Điệp ngữ tình (54 bài thơ tình, 2007), Giấc mơ buổi sáng (333 bài thơ thiếu nhi, 2012), Họng đêm (175 bài thơ tự do, 2012), Đầu non cuối bãi (54 bài thơ lục bát, 2014), Giấc mơ buổi sáng (345 bài thơ thiếu nhi, 2016), Thương hoài thương huỷ (304 bài thơ, 2020).

Anh đã đoạt giải thưởng: Giải thưởng báo Mực tím năm 2003; Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2007; Giải thưởng Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế 2012 và 2020.

Ấn tượng trong mắt bạn văn

Nhà phê bình Hoàng Thuỵ Anh nhận định về thơ Nguyễn Lãm Thắng: “Các con chữ sắc ngọt, trương nở qua các công đoạn cắt dán và lắp ghép, hình thành những điểm nhô, nhọn, tượng trưng, siêu thực.

Do đó, những thi ảnh của Họng đêm vừa cất giấu những ám ảnh vô thức, vừa đầy lý trí, gợi nhiều luồng tiếp nhận… Với Họng đêm, Nguyễn Lãm Thắng thực sự đã minh chứng được vị trí của mình đối với thơ trẻ đương đại.”

Nhà phê bình Hoàng Đăng Khoa nhận xét về tập thơ Thương hoài thương huỷ: “Thi tập này vừa triệu hồi đau thương - vội vàng - điêu tàn, vừa kiến tạo cảm trạng đương đại, tích hợp các trào tiếu bỡn giỡn dân gian, cái khẩu ngữ khẩu khí xứ Quảng, cái bừa bộn hỗn mang dân tình. Mỗi nhát cắt thi phẩm không chỉ là sự vật vã của linh hồn, mà còn là sự giãy giụa của thân xác.

“Phật Chúa im hơi không cứu rỗi”, “ta thương đời ta như câu thơ mong manh”. Và người thơ tự hoá giải kỳ oan thiên nan vấn, bằng xung lực sáng tạo, bằng cách thế vô vi như “câu kinh rong chơi” giữa vô thường phù sinh, bằng nỗi thương hoài thương huỷ tha nhân và cuộc đời.”

Search vào Google mục từ “Nguyễn Lãm Thắng” nhận được những thông tin thấy choáng: Đã viết 1008 bài thơ thiếu nhi; hay đã viết tất thảy 1.631 bài thơ, 130 bài dịch - hoặc: Nguyễn Lãm Thắng - 5 bài thơ xuất hiện 7 lần trong sách giáo khoa. Đó là số liệu chưa được cập nhật, có từ 10 năm trước! Ngoài ra, thơ Nguyễn Lãm Thắng được phổ nhạc hơn 300 bài, nhất là mảng thơ thiếu nhi.

Có vẻ như Nguyễn Lãm Thắng không phải đang làm thơ mà đang tiến đến một cấp độ cao hơn: Chơi thơ thì phải!

Bóng cha trên từng con chữ

* Được biết, nhà thơ Nguyễn Sư Giao có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sáng tác của anh. Xin anh cho biết thêm về câu chuyện này.

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Ba tôi - nhà thơ Nguyễn Sư Giao (bút hiệu Tụ Vinh) - tác giả tuyển tập thơ Dòng sông trăng (NXB Văn học 2013) với hơn 400 bài thơ (trong đó có 166 bài thơ thiếu nhi) và truyện thơ Dòng sông quê hương (gồm 3.456 câu thơ lục bát). Ngoài ra, trong tuyển tập này có 34 bài thơ dịch từ thơ chữ Hán của các tác giả thơ Đường và thơ trung đại Việt Nam.

Từ nhỏ, tôi đã được tiếp cận với những tác phẩm thơ này. Khi lớn lên, đi làm thuê, đi học, rồi làm việc ở Huế, mỗi khi về thăm ba mẹ, tôi lại đọc một lần cho ba tôi nghe những sáng tác của ông.

Hai cha con - hai người bạn, lại có dịp hàn huyên câu chuyện văn nghệ và những sáng tác mới. Chính vì điều này, trong sáng tác của tôi có ảnh hưởng rất nhiều từ ba tôi. Tôi làm thơ lúc nào không biết. Các thể thơ tôi đều nắm vững thi luật. Đối với tôi, không có thể loại thơ nào là cũ.

* Nhiều năm làm giảng viên Đại học Sư phạm Huế và đã có nhiều công trình đáng kể. Xin anh cho biết một cách tổng quát về các đề tài anh đã và đang quan tâm?

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Tôi tốt nghiệp đại học ngành Văn - hoạ. Khi ở lại trường, tôi tham gia giảng dạy Văn bản Hán Nôm, Phương ngữ học, Lịch sử tiếng Việt, Ngôn ngữ văn học và Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nếu có điều kiện thuận lợi tôi sẽ in Tuyển tập thơ Đường, Thơ chữ Hán trung đại Việt Nam, Địa danh Quảng Nam và sẽ triển lãm tranh cá nhân.

Đọc Nguyễn Lãm Thắng, chừng như có sự chuyển động trong từng câu chữ, từ tập thơ đầu Điệp ngữ tình đến Thương hoài thương huỷ. Trong Điệp ngữ tình, sóng ngôn ngữ có cái êm dịu của biển hè: “Nơi anh sống lối về thơm hoa cỏ/ Những con đường dung dị không tên/ Anh nằm nghe xanh mùa lên tiếng thở/ Từ trong hồn phố nhỏ thân quen”, rồi “Anh gom cô đơn nối lại những giọt buồn/ Trong đôi mắt chiêm bao của từng đêm giông bão/ Cái rét gánh tương tư về trong lảo đảo/ Từng giọt mưa trò chuyện với cơn mê”.

Từ “Bâng khuâng gió chạm sân trường cũ/ Nắng đã thay mùa xanh biếc xanh/ Con bướm ngày xưa không đến nữa/ Nỗi buồn ghế đá cứ vây quanh” đến: “Sợi khói buồn thơm những nụ hôn/ Chiều cướp vội bay theo đàn gió lạ/ Mùa đổi dạ lá run cành hối hả/ Anh khai sinh cho đá giọt thơ mềm”.

Thế nhưng đến Họng đêm rồi Đầu non cuối bãi, người đọc thấy có những câu thơ bật lên: “Nắng loang ướt lá bồ đề/ Tiếng chuông đột quỵ bên lề hoàng hôn” và “Trời mang mang, đất mang mang/ Một đêm nằm nhớ văn lang quá trời”. Hay tưng tửng kiểu như: “Thưa em, anh biết chết liền/ Bàn tay năm ngón làm phiền… bàn tay”, hay “Một nghèo cộng với một nghèo/ Níu nhau, ta cõng qua đèo đức tin”…

Chuyển động của sóng ngôn ngữ

* Cảm giác thơ anh là sự chuyển động của sóng theo mùa: xuân-hạ-thu-đông, vậy đâu là nguồn năng lượng tạo nên sóng ngôn ngữ ấy?

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Với tập thơ đầu tay Điệp ngữ tình phần lớn được viết khi tôi còn là học sinh, sinh viên nên ngôn ngữ còn trong sáng. Đến Họng đêm, Đầu non cuối bãi rồi Thương hoài thương huỷ hình như tôi già nua lúc nào không hay.

Bởi vì, tôi thấy cuộc đời này có quá nhiều nỗi buồn. Đôi lúc buồn quá, tôi lại “tưng tửng” với thơ để chắt chiu từng ký ức, từng nỗi vui nho nhỏ. Là người Quảng Nam, tôi càng biết nâng niu phương ngữ của xứ sở sinh ra mình. Tôi sợ lắm khi phương ngữ bị thời gian mai một.

* Có người nhận xét “Nguyễn Lãm Thắng làm thơ lục bát cứ như chơi”...

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Vâng, thơ lục bát dễ làm, cứ bắt vần sáu tám là được, nhưng khó hay. Biết bao nhà thơ đi trước đã thành công. Vì tôi yêu lục bát, nên cứ thở ra là lục bát. Còn nó như thế nào thì xin nhường lại cho bạn đọc.

* Thơ thiếu nhi chiếm khối lượng đáng kể trong gia tài sáng tác của anh. Đã có nhiều tập thơ thiếu nhi dày dặn ra đời. Anh cho biết thêm về vị trí của thơ thiếu nhi trong sự nghiệp sáng tác của mình?

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Tôi viết hơn 2.000 bài thơ cho trẻ con. Tập thơ Giấc mơ buổi sáng tái bản 2016 gồm 345 bài thơ, chỉ là một phần nhỏ thôi. Những bộ sách giáo khoa Tiếng Việt 1, 2, 3 và 4 theo chương trình 2018 đã sử dụng 18 bài thơ, đoạn thơ của tôi làm ngữ liệu. Có gần 300 ca khúc thiếu nhi được phổ từ thơ tôi của các nhạc sĩ: Hoàng Lương, Hồ Hoàng, Quỳnh Hợp, Nguyễn Ngọc Tiến, Trương Pháp, Hồ Ngọc Phước…

* Trong số những bài thơ được chọn in sách giáo khoa và phổ nhạc, anh tâm đắc với những tác phẩm nào nhất?

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Tôi thích các bài thơ như: Giấc mơ buổi sáng, Con đường làng, Em nghĩ về trái đất

Đối với thơ được phổ nhạc, mỗi ca khúc đều có giai điệu riêng, tôi đều thích. Như: Chợ xuân (Quỳnh Hợp), Trong giấc mơ buổi sáng (Trương Pháp), Vì sao lưng bà còng (Hoàng Lương), Heo đất ngày xuân (Yên Lam), Cái nắng đi chơi (Nguyễn Tiến Nghĩa)…

* Bạn đọc rất thích những bài thơ rặt Quảng của anh, có thể kể một vài bài tiêu biểu về mảng đề tài này?

- Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Vâng, xin ví dụ vài bài: Thương hoài thương huỷ, Gặp chi cắc cớ rứa trời, Chiều ngó xa xăm, Đêm buồn sờ cái gót chân, Lẩn thẩn chiều quê, Tau hỏi mi

* Xin cảm ơn nhà thơ!


Lê Trâm
35.00
Chia sẻ trên Facebook