15.00
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Tây Sơn
3 bài trả lời: 3 thảo luận
5 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 12/08/2006 05:40

檄𢱏鄭

生民沛餒民乄苉,丕皇天劺坦君師
厳亂乭篭亂買衝,意王者固番兵革
會順應世停特渚
役征誅峼呵悶凨
些低:稟氣俼南
本匇戶阮
唕祿搩沛剗役搩,璳番張子者恩韓
吿恱噖戼仌義噖,之底曹昿噽鑊漢
恨國傅歯峼背上
戼西山唱義勤王
苉卥垠焈廏堚匇,矯党逆撻謀岌紤
畱卥扅湄霪欺旱,矯窮人沙準淋炭
叿峼俼群咜頉富春
亁玌辸吏基圖華夏
儍別辻俼固斎,賊戶張櫲遍氾厰份
俸吹侙搩爭倈,碎茹夏沛收回侼搩
侙蚌鷸當群對炦
軐鯨狼澃窖緫碒
外瀓坘救援乄名,民驚亂舉兵弔罰
瑇亖岲承危底腋,準承平戼餒流離
宮笌城郭破凌凌
銃蓊船廵收汰汰
怽扱曲拯傷匇外族,乑窮塘訸獸時崔
玌騎纅群仌淁先君,吏劂讁彅焵澃堖
棊岲暴帞蘍儖項
椖峼圤搩沚衛劉
眾窮塘旗義剾衛投,戼軍數每挧沒盛
民飢饉感峼仁顒股,遣兵威強瀋強添
廣南它撅瀝樚塵
順化吏剾衛坡憥
南沒綨沁鯨滂焔,機太平蹱待乑媑
北亖城信雁荗安,僟救援憹鐭澃便
感功德噖黎敢負
弄權行戶鄭讱牐
辻皇帝撻空,甧搩隰牢絤獕鄧
罪黃巢拯固,峼貞挑緈侟屏
乨端王強煏腋無君
謀篡奪戼峼背父
長宮本汖哰卥嫡,權吒槒背泊澃乭
殿都雖珷岺仍英,命吒僲爭欺澃沛
碒拯兌彣坘顧命
炦儍鐭侟準梓宮
遣沒彈岞娋彈堏,剾岲孝堖招笹坦
底仍丗碎桰圤様,曢嘺冤乑動彣俼
志尊扶叿拯謀珄,時敕令銀錢儍待佊
詟虐杆群剾笹撨,義理儍俼坦群容
歄侊欮軍訸特官,意事意汖哰共邏
為廢立悶珄朱益
底傾危乄搩沛剗
円閉哰臣佞主惛,鎼平治峼俼罕悶
吏厳會兵驕民怨,嵦欦欮才奇沛歯
斫万全乑鑿廏衡山
兵即刻張帆北海
戈槣孟拂旗周武,歯壦處正篭斜
侟坦關凒馭漢皇,志決娎仁啚暴
插嵦本原峼寔
啔腬沛俌坘桰
岲向明沛瀓埃推,傷士女玄黃卥世
簕助順罕蜫丗別,....女些
埃別推理沛,決沒峼夏眾兮蘇
些拯負民肑,亁侼岲秋毫無犯
軐背反籒慣如苉
刼太平群底浌憻
搩潮東啻拯順匇,吏拒強僲篍壦振
帞奵廏塩和峢玉,凨賢愚坤扨歄俼
恩買威俌告坘恒
順呍逆默峼埃決

 

Hịch đánh Trịnh

Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đất quân sư
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách
Hội thuận ứng thế đừng được chửa
Việc chinh tru lòng há muốn ru
Ta đây: Bẩm khí trời Nam
Vốn dòng họ Nguyễn
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào man nhòm vạc Hán
Giận quốc phó ra lòng bội thượng
Nên tây Sơn xướng nghĩa cần vương
Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp ghé
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng nhân sa chốn lầm than
Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân
Ắt đấu cũ lại cơ đồ Hoa Hạ
Nào biết ngôi trời có bảy, giặc họ Trương toan biến phiếm mười phần
Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước
Thế bạng duật đương còn đối mặt
Thói kình lang sao khéo lắng tai
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn cử binh điếu phạt
Trong mấy chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly
Cung đền thành quách phá lâng lâng
Súng ống thuyền bè thu thảy thảy
Cơn gấp khúc chẳng thương dòng ngoại tộc, đã cùng đường đuổi thú thời thôi
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đấng tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ
So chữ bạo lửa nồng quá Hạng
Dò lòng người nước chảy về Lưu
Chúng cùng đường cờ nghĩa đem về đầu, nên quân số mỗi ngày một thịnh
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, khiến binh uy càng thấm càng thêm
Quảng Nam đà quét sạch bụi trần
Thuận Hoá lại đem về bờ cõi
Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện
Cảm công đức vua Lê dám phụ
Lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng
Tội Hoàng Sào chẳng có, lòng trinh thêu dệt vào bình
Hiệu Đoan Vương càng tỏ dạ vô quân
Mưu soán đoạt nên lòng bội phụ
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trót bội bạc sao đành
Điện Đô tuy bé nhỏ nhưng anh, mệnh cha rắp tranh khi sao phải
Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh
Mặt nào trông vào chốn tử cung
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời
Chí tôn phù ví chẳng mưu mình, thì sắc lệnh ngân tiền nào đợi nó
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa lý nào trời đất còn dong
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, ấy sự ấy xưa nay cũng lạ
Vì phế lập muốn mình cho ích
Để khuynh nguy làm nước phải lo
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra
Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn
Binh tức khắc giương buồm Bắc Hải
Qua sông Mạnh phất cờ Chu Võ, ra tay sử chính dẹp tà
Vào đất Quan thét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân đổi bạo
Sắp sửa vốn nguyên lòng thật
Giữ gìn phải ngỏ lời ngay
Chữ hướng minh phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế
Máy trợ thuận hẳn nhiều kẻ biết,.... nữa ta
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng hạ chúng hề tô
Ta chẳng phụ dân lành, ắt hai chữ thu hào vô phạm
Thói bội phản chớ quen như trước
Chút thái bình còn để dài lâu
Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn
Lửa cháy đá lỡ hoà lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời
Ân với uy ngỏ cáo lời hằng
Thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản chữ Nôm

Bản chữ Nôm:

生民沛餒民乄苉,丕皇天劺坦君師
厳亂乭篭亂買衝,意王者固番兵革
會順應世停特渚
役征誅峼呵悶凨
些低:稟氣俼南
本匇戶阮
唕祿搩沛剗役搩,璳番張子者恩韓
吿恱噖戼仌義噖,之底曹昿噽鑊漢
恨國傅歯峼背上
戼西山唱義勤王
苉卥垠焈廏堚匇,矯党逆撻謀岌紤
畱卥扅湄霪欺旱,矯窮人沙準淋炭
叿峼俼群咜頉富春
亁玌辸吏基圖華夏
儍別辻俼固斎,賊戶張櫲遍氾厰份
俸吹侙搩爭倈,碎茹夏沛收回侼搩
侙蚌鷸當群對炦
軐鯨狼澃窖緫碒
外瀓坘救援乄名,民驚亂舉兵弔罰
瑇亖岲承危底腋,準承平戼餒流離
宮笌城郭破凌凌
銃蓊船廵收汰汰
怽扱曲拯傷匇外族,乑窮塘訸獸時崔
玌騎纅群仌淁先君,吏劂讁彅焵澃堖
棊岲暴帞蘍儖項
椖峼圤搩沚衛劉
眾窮塘旗義剾衛投,戼軍數每挧沒盛
民飢饉感峼仁顒股,遣兵威強瀋強添
廣南它撅瀝樚塵
順化吏剾衛坡憥
南沒綨沁鯨滂焔,機太平蹱待乑媑
北亖城信雁荗安,僟救援憹鐭澃便
感功德噖黎敢負
弄權行戶鄭讱牐
辻皇帝撻空,甧搩隰牢絤獕鄧
罪黃巢拯固,峼貞挑緈侟屏
乨端王強煏腋無君
謀篡奪戼峼背父
長宮本汖哰卥嫡,權吒槒背泊澃乭
殿都雖珷岺仍英,命吒僲爭欺澃沛
碒拯兌彣坘顧命
炦儍鐭侟準梓宮
遣沒彈岞娋彈堏,剾岲孝堖招笹坦
底仍丗碎桰圤様,曢嘺冤乑動彣俼
志尊扶叿拯謀珄,時敕令銀錢儍待佊
詟虐杆群剾笹撨,義理儍俼坦群容
歄侊欮軍訸特官,意事意汖哰共邏
為廢立悶珄朱益
底傾危乄搩沛剗
円閉哰臣佞主惛,鎼平治峼俼罕悶
吏厳會兵驕民怨,嵦欦欮才奇沛歯
斫万全乑鑿廏衡山
兵即刻張帆北海
戈槣孟拂旗周武,歯壦處正篭斜
侟坦關凒馭漢皇,志決娎仁啚暴
插嵦本原峼寔
啔腬沛俌坘桰
岲向明沛瀓埃推,傷士女玄黃卥世
簕助順罕蜫丗別,....女些
埃別推理沛,決沒峼夏眾兮蘇
些拯負民肑,亁侼岲秋毫無犯
軐背反籒慣如苉
刼太平群底浌憻
搩潮東啻拯順匇,吏拒強僲篍壦振
帞奵廏塩和峢玉,凨賢愚坤扨歄俼
恩買威俌告坘恒
順呍逆默峼埃決.

Ghi chú: Bài này hịch này tương truyền của Nguyễn Hữu Chỉnh thay mặt vua Quang Trung soạn ra, nhưng dù vua Quang Trung không làm toàn bộ thì chắc cũng phải tham gia hiệu đính tu sửa rất nhiều vì bài hịch chính thức đứng tên ông, mà vua Quang Trung vốn là người sính chữ Nôm và cũng có học vấn, lại là người thích tự tay làm mọi việc. Đọc đoạn thơ Nôm của vua Quang Trung "Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ..." chúng ta thấy giọng điệu khí phách không khác gì bài hịch, nên bảo rằng Nguyễn Hữu Chỉnh làm toàn bộ là không có cơ sở!

Bài này chúng tôi đánh lại theo bản phiên âm nhớ được chứ không hề có bản nôm nào đối chiếu, toàn bộ chữ quốc ngữ & chữ Nôm được nhập vào MS Word 97 trên nền Windows98 mục đích để minh họa cho việc sử dụng chương trình Hán Nôm 2002.                                            
HUE 10-2002

Nguồn: http://nom.netnam.vn/HanNom/TuLieu/HICHTRINH.htm

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Thuận thiên thừa vận

Sinh dân phải nuôi dân làm nước, vậy nên hoàng thiên mới dựng đất quân sư;
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy là cho vương giả có phen binh cách.

Hội thuận ứng thế dùng được chửa
Việc chính trị lòng há muốn thưa
Ta đây: Bẩm khí trời Nam
Vốn dòng họ Nguyễn.

Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Dân chủ giả ơn Đền;
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Trung cộng nhòm vạc Hán.

Giận cộng Sản ra lòng bội thượng
Thay nhà Nước xướng nghĩa cần vương.

Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp ghé;
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng nhân sa chốn lầm than.

Ví lòng trời còn nền nếp Đại Việt
Ắt đấu cũ lại cơ đồ Tiên Đế.

Nào biết ngôi trời có bảy, giặc họ Trương toan biến phiếm mười phần;
Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Trần phải thu hồi hai nước.

Thế bạt nhược đương còn đối mặt
Thói kình lang sao khéo lắng tai.

Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn cử binh điếu phạt;
Trong mấy chữ nguỵ quyền để dạ, chốn hoà bình nên nỗi lưu ly.

Cung đền thành quách phá lâng lâng
Súng ống thuyền bè thu thảy thảy.

Cơn gấp khúc chẳng thương dòng ngoại tộc, đã cùng đường đuổi thú thời thôi;
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đấng tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ.

So chữ bạo ngược dòng quá Ngô
Dò lòng người nước chảy về Hồ.

Chúng cùng đường cờ nghĩa đem về đầu, nên quân số mỗi ngày một cường thịnh;
Dân cơ vận cảm lòng nhân ngóng cổ, khiến binh uy càng thấm lại càng thêm.

Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần;
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện.

Cảm công đức vua Lê dám phụ
Lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe.

Ngôi Hoàng Đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng;
Tội Hoàng Sa chẳng có, lòng trinh thêu dệt đổ vào bình.

Hiệu Tổng Thống càng tỏ dạ vô quân
Mưu soán đoạt nên đem lòng bội phụ.

Hoàng cung vốn xưa nay là đích đến, quyền cha trót bội bạc sao đành;
Rừng hoang tuy bé nhỏ nhưng tinh anh, mệnh cha rắp tranh khinh sao phải.

Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh
Mặt nào trông vào chốn tử cung.

Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ đành gieo xuống đất;
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời xanh;
Chí tôn phù ví chẳng mưu mình, thì sắc lệnh kim ngân nào đợi nó;
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa Lý nào trời đất còn thong dong;
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, ấy sự thế xưa nay cũng chẳng lạ.

Vì phế lập muốn mình cho ích
Để khuynh nguy làm nước phải lo.

Vả bấy nay thần nịnh bạo chúa, mở bình trị lòng trời hẳn muốn thấy;
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra tay.

Chước vạn toàn đã tạc đá Bắc Hồ
Binh tức khắc giương buồm sang Nam Hải.

Qua sông Hồng phất cờ Thăng Long, ra tay xử chính dẹp yên tà;
Vào đất Tống thét ngựa Nguyên Mông, quyết chí lấy nhân đổi bạo cường.

Sắp sửa vốn nguyên lòng thật
Giữ gìn phải ngỏ lời ngay.

Chữ Chí Minh phải mượn ai suy, chân Thiên Tử huyển hoặc là thế;
Máy trợ thuận hẳn nhiều kẻ biết, ai khác nữa ngoài ra có ta.

Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng hạ chúng Lâm Tô;
Ta chẳng phụ dân lành, ắt hai chữ ngục thần vô phạm.

Thói bội phản chớ quen như thuở trước
Chút thái bình còn để lại dài lâu.

Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn;
Lửa cháy đá lỡ hoà lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.

Ân với uy ngỏ cáo lời rằng
Thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.

Hồng Đức
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản trong Lê quý dật sử

Bản này trong Lê quý dật sử của Bùi Dương Lịch, thấy có lý hơn bản hiện tại một số câu. Ví dụ như “Tội Hoàng trừ chẳng có...” có lý hơn là “Tội Hoàng Sào chẳng có...”.

Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đấng quân sư,
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách.
Hội thuận ứng thế đừng được chửa,
Việc chinh tru lòng khá muốn ru.
Đây:
Cấu khí trời Nam,
Vốn dòng dõi họ Nguyễn.
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn,
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào Man nhòm vạc Hán.
Giận quốc phó ra dòng bội thương,
Nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương.
Trước là ngăn cột đá giữ dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé,
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than.
Ví lòng trời còn nề nếp Phú Xuân,
Ăt dấu cũ lại cơ đồ Hữu Hạ.
Nào biết tộ đời có bảy, giặc họ Trương toan phiến biến mười tuần,
Bỗng xui thế nước nên ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước,
Thế bạng duật đang còn đối mặt,
Thói đường lang sao khéo lắng tai.
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn ngỡ binh điếu phạt,
Trong cưu chư thừa nguy để dạn, chốn thừa bình nên nỗi lưu li.
Cung đài thành quách phá lâng lâng,
Súng ống thuyền bè thu thảy thảy.
Cơn gấp khúc chẳng thương lòng ngoại tộc, đã cùng rừng đuổi thú thời thôi,
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đức tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ?
So chữ bạo, lửa nồng quá Hạng,
Dò lòng người, nước chảy về Lưu,
Chúng điêu tàn mong cờ nghĩa vể đầu, khiến quân số một ngày một thịnh,
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, nên binh uy càng tháng càng thêm.
Quảng Nam đã quét sạch bụi nhơ,
Thuận Hoá lại đem về bờ cõi.
Nam một giải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần,
Bắc mấy thành chằm nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi xem sao tiện?
Cảm công đức vua Lê dám phụ,
Lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe.
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lung lao lấy trịch,
Tội Hoàng trừ chẳng có mang lòng riêng thêu dệt vào hình.
Hiệu Đoan vương càng tỏ dạ vô quân,
Mưu thoán vị lại cưu lòng bội phụ.
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trao bội bạc sao đành?
Điện đô tuy bé mọn nhưng anh, mệnh cha lập tranh khi sao phải?
Tai chẳng đoái tới lời cố mệnh,
Mặt nào trông vào chốn tử cung?
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất,
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời!
Ví tôn phù ủng bách chẳng mưu mình,
Thì sắc lệnh ngân tiền sao đãi nó.
Gươm ngược cán trên đem xuống đưới, nghĩa lý nào còn trời đất dung?
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, chính sự ấy xưa nay cũng lạ!
Vì phế lập muốn mình có ích, để khuynh nguy làm nước phải lo,
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn.
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối riềng tài cả phải ra,
Chước vạn toàn đà tạc đá Hoành Sơn,
Binh tứ khắc lại trương buồm Bắc Hải.
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sửa chính dẹp tà,
Vào đất Quan thét ngựa Hán Hoàng quyết chí lấy nhân đổi bạo.
Sắp sửa vốn nguyền lòng thực, vỗ về phải ngỏ lời ngay.
Chữ “hướng minh” phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế,
Máy “trợ thuận” hẳn nhiều kẻ biết, Tần lại dân ngưu tửu nữa ta.
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng hạ chúng hề tô,
Ta chi phụ dân lành, ắt bồn chữ thu hào vô phạm.
Thói bội bạn chớ quen như trước;
Phúc thái bình đều hưởng về sau.
Nước triều đông ví chẳng thuận lòng, lại cự cưỡng dám giơ tay chắn,
Lửa cháy, đá nhỡ hoà lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.
Ơn với uy ngỏ cáo lời hằng;
Thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời