25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)
Thời kỳ: Nguyễn
5 bài trả lời: 5 bản dịch
1 người thích
Từ khoá: thơ đi sứ (673)

Đăng bởi Vanachi vào 19/12/2005 12:23, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 19/12/2005 12:33

梁昭明太子分經石臺

梁朝昭明太子分經處,
石臺猶記分經字。
臺基蕪沒雨花中,
百草驚寒盡枯死。
不見遺經在何所,
往事空傳梁太子。
太子年少溺菸文,
強作解事徒紛紛。
佛本是空不著物,
何有乎經安用分。
靈文不在言語科,
孰為金剛為法華。
色空境界茫不悟,
癡心歸佛佛生魔。
一門父子多膠蔽,
一念之中魔自至。
山陵不涌蓮花臺,
白馬朝渡長江水。
楚林禍木池殃魚,
經卷燒灰臺亦圯。
空留無益萬千言,
後世愚僧徒聒耳。
吾聞世尊在靈山,
說法渡人如恆河沙數。
人了此心人自渡,
靈山只在汝心頭。
明鏡亦非臺,
菩提本無樹。
我讀金剛千遍零,
其中奧旨多不明。
及到分經石臺下,
終知無字是眞經。

 

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do ký “Phân kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thuỷ
Sở lâm hoạ mộc trì ương ngư

Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh

 

Dịch nghĩa

Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ “Chia kinh”
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tuỳ thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai hoạ, cá trong ao bị vạ
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá “Chia kinh”
Mới hiểu kinh “không chữ” mới thật là chân kinh


Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con của Lương Vũ Đế 梁武帝, tức Tiêu Diễn 蕭統 (502-549), thời Nam Bắc triều 南北朝, hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Học rộng, ham nghiên cứu văn học, là tác giả bộ Văn tuyển 文選.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Nơi Lương thái tử từng chia kinh
Hai chữ “Phân kinh” khắc rõ rành
Nền đá góc gai mưa bụi lấp
Trăm loài cỏ lạnh chết điêu linh
Chẳng thấy kinh xưa để lại đâu
Chỉ nghe kể chuyện đã từ lâu
Chiêu Minh thái tử mê văn tự
Chú giải lôi thôi chữ với câu
Phật vốn là không, chẳng vướng vật
Sao lại đem kinh chia với cắt?
Văn thiêng không nhờ ngôn ngữ khoa
Chi là Kim Cương, chi Pháp Hoa?
Sắc Không cảnh giới mù không hiểu
Theo Phật, u mê, Phật hoá ma
Cha con một họ cùng đui cả
Một niệm dấy lên, đến cửa ma
Lăng núi, đài sen không nổi dậy
Một hôm ngựa trắng vượt Trường Giang
Rừng cây nước Sở bừng bừng cháy
Kinh biến ra tro, đài sụp tan
Muôn nghìn lời cũng hoàn vô ích
Sư ngu hậu thế tụng lăng nhăng
Thế Tôn ở núi Linh truyền Pháp
Cứu người nhiều tựa cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở lòng ta đó
Gương sáng chẳng phải đài
Bồ đề cây không có
Ta đọc Kim Cương quá số nghìn
Yếu chỉ bên trong chưa thực rõ
Đến đây, nền đá đài “Chia kinh”
“Không chữ” chân kinh, giờ mới tỏ

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
24.50
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của hahuyen

Nơi phân kinh Chiêu Minh thái tử,
Đài đá còn in chữ phân kinh;
Nền hoang hoa dại phủ trong mưa,
Trăm cỏ chết khô run sợ rét.
Chẳng thấy lưu kinh ở nơi nào?
Việc chỉ nghe qua Lương Thái tử;
Ấu thời người lại thích văn chương,
Cưỡng bày chú giải thêm lộn xộn.
Phật vốn là không, không chấp vật,
Vậy có kinh nào để đặt chia?
Văn linh nào nhờ nơi ngôn ngữ,
Kim Cương, Pháp Hoa là kinh gì?
Cảnh giới sắc không mà không tỏ,
Lòng mê theo Phât, Phật thành ma;
Cha con một nhà đều mù cả,
Một niệm khởi lên ma tự đến.
Lăng tẩm, đài sen không tự mọc,
Một sớm trường giang bạch mã qua;
Cây lây rừng Sở ao cá vạ,
Kinh đốt ra tro đài sập luôn.
Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích,
Tăng ngu hậu thế miệng lải nhải;
Tôi nghe Thế tôn tại Linh Sơn,
Nói pháp độ người như số cát.
Người tỏ tâm này người tự độ,
Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi;
Gương sáng trong veo cũng không đài,
Bồ-đề xưa nay vốn không cây.
Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến,
Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều;
Cho đến dưới đài đá phân kinh,
Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Chốn thái tử Chiêu Minh thuở trước,
Đài đá ghi rõ nét "phân kinh".
Đài xưa gió giật mây vần,
Cỏ cây giá rét thân cành chết khô.

Pho kinh cũ hồ đồ đâu thấy,
Chuyện đồn xưa thái tử nhà Lương,
Trẻ trai mê đắm văn chương,
Chia kinh khéo vẽ thêm tuồng ngẩn ngơ.

Phật vốn không, đâu nhờ cậy vật,
Kinh cũng không, bày đặt lừa ai,
Văn thiêng không bởi ở lời,
Pháp Hoa: hão, Kim Cương: thôi, cũng xằng.

Giữa không sắc lăng xăng chẳng tỏ,
Khéo tin quàng phật trở thành ma,
U mê con cũng như cha,
Bởi tâm vọng tưởng nên ma hiện tiền.

Chẳng thấy đó toà sen gò núi,
Để sớm mai ngựa vội sang sông,
Cây rừng cá vực luỵ vòng,
Kinh thành tro bụi, đài không tan tành.

Nghìn vạn chữ cũng đành tuồng bỏ,
Bọn ngu tăng mượn đó lừa đời,
Thế tôn thuyết pháp mượn lời,
Cứu người nhiều tựa cát nơi sông Hằng.

Quán tâm được ấy mình tự độ,
Núi Linh Sơn chỉ ở lòng người,
Gương trong chớ tưởng là đài,
"Bồ Đề" vốn chẳng là cây, chớ nhầm.

Kinh "Kim Cương" nghìn lần đã đọc,
Nghĩa huyền vi gạn lọc khó ra,
Dưới đài gặp lúc bước qua,
Biết kinh không chữ mới là chân kinh.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Phụng

Đài Lương thái tử giảng kinh
Còn đây hai chữ phân kinh rêu mờ
Nền đài hoang dưới màn mưa
Cỏ cây băng giá héo khô một trời
5Kinh xưa nay mất hết rồi
Lời đồn truyền lại từ đời nhà Lương
Rằng thái tử chuộng văn chương
Việc giảng kinh thực khó lường đúng sai
Phật không trụ vật hình hài
10Huống là kinh khéo đặt bày giảng phân
Kệ kinh chẳng vụ lời văn
Hỏi Pháp Hoa hỏi Kim Cang dạy gì
Pháp không cảnh giới hiểu chi
Si mê theo Phật khác gì theo ma
15Cha con mù quáng một nhà
Dấy lên một niệm sinh ma trong lòng
Sơn Lăng chẳng nở sen hồng
Sớm mai ngựa trắng vượt dòng Trường Giang
Đài xụp đổ kinh thành than
20Vạ lây cá vực chim ngàn truân chuyên
Vạn lời vô ích lưu truyền
Rác tai hậu thế muôn thiên luận bàn
Đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Độ người kể số cát sông Hằng Hà
25Ngộ tại tâm tự độ ta
Linh Sơn do tại tâm là chẳng sai
Gương trong đâu bởi tại đài
Bồ Đề đâu phải là cây cõi trần
Kim Cang ta đọc ngàn lần
30Nhiều câu khó hiểu nhiều phần sâu xa
Đến đài đây chợt hiểu ra
Rằng kinh không chữ mới là chân kinh.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Chiêu Minh nơi thái tử Triều Lương,
Còn ghi đài đá chữ “Chia kinh”
Nền đài gai góc lấp mưa bụi
Cỏ lạnh trăm loài chết rụi mình
Còn lại nơi đâu Kinh chẵng thấy
Chỉ nghe chuyện kể thời xưa kinh
Mê văn niên thiếu thời Chiêu Minh.
Phân tách kinh thêm chú giải rối
Phật vốn không, chẳng vướng vật, mình
Có gì tuỳ thuộc mà chia, phân?
Văn thiêng không nhờ ngữ khoa văn
Gì kệ Kim Cương, kinh Pháp Hoa?
Không Sắc mịt mờ giới khó hiểu,
U mê theo Phật, Phật sinh ma
Cha con mù quáng cùng trong nhà.
Một niệm chỉ trong ma tự đến
Lăng núi không đài sen nổi lên
Một mai bạch mã vượt Trường Giang.
Cá ao rừng Sở cháy cây vạ
Kinh hoá tro đài cũng đổ ngang
Muôn lời còn lại đều vô ích
Để sư đời sau tụng xiêng quàng.
Đức Thế Tôn Linh Sơn ta biết,
Thuyết Pháp cứu nhiều tựa cát Hằng,
Pháp này người hiểu người mình độ,
Linh Sơn chính ở tại lòng ta.
Gương sáng chẳng cần xây gác lầu,
Không chỉ Bồ đề vốn cỏ cây.
Kim cương ta đọc hơn nghìn lần
Cao thâm yếu chỉ không tường đâu.
Đài đá “Chia kinh” nay dưới đó,
Hiểu ra “vô tự” mới chân kinh.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời