25.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
1 người thích
Từ khoá: thơ sách giáo khoa (667) Văn học 10 [1990-2006] (49)

Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2005 11:14, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 19/10/2005 10:42

Bao nỗi yêu thương, chia ly sao nỡ?
Tấm lòng ghen tức, bưng kín ai hay?
(Câu 1467-1606)


Bày hàng cổ xuý xôn xao
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi
Thương vì hạnh, trọng vì tài
1470. Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Huệ lan sực nức một nhà
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
Mảng vui rượu sớm cờ trưa
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh
E tình, nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên
Tin nhà ngày một vắng tin
1480. Mặn tình cát luỹ, lạt tình tao khang
Nghĩ ra thật cũng nên đường
Tăm hơi, ai kẻ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
Ở vào khuôn phép, nói ra mối giường
1485. E thay những dạ phi thường
Dễ dò rốn biển, khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao
1490. Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng liệu kíp lại nhà
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình
Đêm ngày giữ mực giấu quanh
Rày lần, mai lữa, như hình chưa thông!

1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang
Rạng ra gửi đến xuân đường
Thúc ông cũng rội giục chàng ninh gia
Tiễn đưa một chén quan hà
1500. Xuân đình thoát đã dạo ra Cao đình
Sông Tần một giải xanh xanh
Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời
1505. Nàng rằng: Non nước xa khơi
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
Dễ loà yếm thắm trôn kim
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng
1510. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh
Dầu khi sóng gió bất tình
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi
Hơn điều giấu ngược, giấu xuôi
Lại mang những việc tầy trời đến sau
1515. Thương nhau xin nhớ lời nhau
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
Chén đưa nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.

Người lên ngựa, kẻ chia bào
1520. Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
1525. Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường

Kể chi những nỗi dọc đường
Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà
Vốn dòng họ Hoạn danh gia
1530. Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không
Lửa tâm càng giập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Ví bằng thú thật cùng ta
1540. Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên
Dại chi chẳng giữ lấy nền
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. Tính rằng cách mặt, khuất lời
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho
Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau
1550. Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván, bán thuyền, biết tay!
Nỗi lòng kín chẳng ai hay
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài

1555. Tuần sau bỗng thấy hai người
Mách tin, ý cũng liệu bài tâng công
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai
1560. Điều này hẳn miệng những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy
Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng
Trong ngoài kín mít như bưng
Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không

Đêm ngày lòng những giận lòng
Sinh đà về đến lầu hồng, xuống yên
Lời tan hợp, nỗi hàn huyên
1570. Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng
Tẩy trần vui chén thong dong
Nỗi lòng, ai ở trong lòng mà ra?
Chàng về xem ý tứ nhà
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say
Tóc tơ bất động mảy may sự tình
Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng
1580. Rút dây sợ nữa động rừng, lại thôi
Có khi vui chuyện mua cười
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
Mười phần ta đã tin nhau cả mười

1585. Khen cho những miệng rông dài
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia
Thiếp dầu vụng, chẳng hay suy
Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười!

Thấy lời thủng thỉnh như chơi
1590. Thuận lời, chàng cũng nói xuôi đỡ đòn
Những là cười phấn cợt son
Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai
Thú quê thuần hức bén mùi
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ
Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng
Tình riêng chưa dám rỉ răng
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm, mây bạc xa xa
1600. Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn
Được lời như cởi tấc son
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người
Long lanh dáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.


Trích đoạn của phần này (từ câu “Người lên ngựa, kẻ chia bào” đến câu “Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”) được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.