銅雀臺

一世之雄安在哉,
古人去兮今人來。
不見鄴中魏武帝,
但見江邊銅雀臺。
臺基雖在已傾圮,
陰風怒號秋草靡。
玉龍金鳳盡茫茫,
何況臺中歌舞妓。
斯人盛時誰敢當,
眇視皇帝凌侯王。
只恨層臺空律屼,
小喬終老嫁周郎。
一朝大限有時至,
尚食奏歌圖悅鬼。
分香賣履苦叮嚀,
落落丈夫何爾爾。
奸雄別自有機心,
不是鳴哀兒女氣。
千機萬巧盡成空,
終古傷心漳江水。
我思古人傷我情,
徘徊俯仰悲浮生。
如此英雄且如此,
況乎寸功與薄名。
人間勳業若長在,
此地高臺應未傾。

 

Đồng Tước đài

Nhất thế chi hùng an tại tai,
Cổ nhân khứ hề kim nhân lai.
Bất kiến Nghiệp trung Nguỵ Vũ Đế,
Đãn kiến giang biên Đồng Tước đài.
Đài cơ tuy tại dĩ khuynh bĩ,
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ.
Ngọc Long, Kim Phượng tận mang mang,
Hà huống đài trung ca vũ kỹ.
Tư nhân thịnh thời thuỳ cảm đương,
Miễu thị hoàng đế lăng hầu vương.
Chỉ hận tằng đài không luật ngột,
Tiểu Kiều chung lão giá Chu Lang.
Nhất triêu đại hạn hữu thì chí,
Thượng thực tấu ca đồ duyệt quỷ.
Phân hương mại lí khổ đinh ninh,
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ.
Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm,
Bất thị minh ai nhi nữ khí.
Thiên cơ vạn xảo tận thành không,
Chung cổ thương tâm Chương Giang thuỷ.
Ngã tư cổ nhân thương ngã tình,
Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh.
Như thử anh hùng thả như thử,
Huống hồ thốn công dữ bạc danh.
Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại,
Thử địa cao đài ưng vị khuynh.

 

Dịch nghĩa

Anh hùng một thuở nay ở đâu ?
Người xưa đã qua, ôi! người nay tới
Chẳng thấy Nguỵ Vũ đế trong thành Nghiệp
Chỉ thấy đài Đồng Tước ở bên sông
Nền đài tuy còn, nhưng đã nghiêng đổ
Gió lạnh thét gào, cỏ thu tàn úa
Lầu Ngọc Long, Kim Phụng cũng mịt mờ dấu vết
Huống chi ca nhi, vũ nữ trong đài
Người ấy lúc thịnh, ai dám chống lại?
Coi thường vua, lấn lướt vương hầu
Chỉ hận mấy tầng lầu cao sừng sững
Mà nàng Tiểu Kiều đến già vẫn là vợ Chu Lang
Một sớm mai hạn lớn xảy đến
Dâng thức ăn, đàn hát mong làm vui hồn ma
Chia hương, bán giày, khổ tâm dặn dò
Bậc trượng phu tài ba lỗi lạc mà sao như thế ?
Kẻ gian hùng riêng có mưu kế trong lòng
Chẳng phải kêu thương uỷ mị như tính khí đàn bà ?
Rốt cuộc muôn khéo nghìn khôn cũng thành không tất cả
Từ ngàn xưa đau lòng nước sông Chương
Ta nghĩ đến người xưa mà xót nỗi mình
Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh
Anh hùng đến như thế mà như thế
Huống chi những kẻ có chút công nhỏ mọn, danh vọng mỏng manh
Nghiệp lớn ở đời nếu còn mãi
Thì toà đài cao ở đất này đã chưa đổ


Đồng Tước đài: đài do Tào Tháo xây ở Nghiệp 鄴 quận làm chỗ vui chơi.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Một thuở anh hùng nay ở đâu?
Người xưa qua mất, đến người sau
Trong thành Nguỵ đế không còn nữa
Chỉ thấy đài xưa bến nước sâu
Còn đây dấu cũ nền nghiêng đổ
Gió lạnh gào kêu, thu cỏ úa
Lầu rồng, gác phụng thảy tiêu tan
Nói đến làm chi người hát múa
Thịnh thời người ấy, ai đương đầu?
Coi thường vua chúa, lấn vương hầu
Chỉ hận mấy tầng cao sững sững
Tiểu Kiều già vẫn vợ chàng Chu
Hạn lớn một mai bỗng xảy ra
Dâng ăn, đàn hát vui hồn ma
Hương chia, giày bán dặn dò mãi
Lỗi lạc trượng phu như thế a!
Gian hùng mưu kế lạ trong lòng
Tính khí đàn bà uỷ mị thương
Muôn khéo, nghìn khôn không hết thảy
Nghìn năm đứt ruột nước sông Chương
Nghĩ đến người xưa xót nỗi mình
Bồi hồi cúi ngẩng kiếp phù sinh
Anh hùng như thế mà như thế
Huống kẻ công hèn phận mỏng manh
Trên đời huân nghiệp như còn mãi
Đất này đâu đã đổ toà thành

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Anh hùng thuở trước bây giờ đâu
Nay đến, xưa qua cuộc bể dâu.
Thành Nghiệp nào còn vua Ngụy nữa,
Còn đó bên sông Đồng Tước lầu.
Nền vẫn còn đây đài đã đổ,
Rời rã cỏ thu, gào thét gió.
Ngọc Long, Kim Phượng hoang tàn rồi,
Vũ nữ ca nhi đâu còn nữa
Thịnh thời ngang dọc ai dám đương,
Coi thường hoàng đế, nhục hầu vương.
Chỉ tiếc đài cao đành bỏ phí
Tiểu Kiều chung cuộc vợ Chu Lang.
Một sớm đến khi tàn vận số,
Khéo tấu nhạc ca, bày dâng cổ.
Chia hương, bán dép dặn dò chi,
Trượng phu lỗi lạc sao không ngộ.
Gian hùng ắt hẳn có cơ tâm,
Chẳng thói nữ nhi khóc lóc ầm.
Nghìn mưu, vạn mẹo công cũng uổng,
Sông Chương sầu dợn nước ngàn năm.
Nghĩ đến người xưa, xót nỗi mình
Não nùng thêm ngán kiếp phù sinh.
Anh hùng đến thế mà như thế
Huống kẻ hợm mình có chút danh.
Sự nghiệp ở đời như sống mãi
Nền đài Đồng Tước chửa nghiêng chăng.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Một thuở anh hùng nay ở đâu?
Người xưa đã khuất, đến người nay,
Không còn Nguỵ Vũ nơi miền Nghiệp,
Chỉ thấy bên sông Đồng Tước đài.
Tồn tại nền đài, lầu đã đổ,
Cỏ tàn gió lạnh thét ghê thay!
Ngọc Long Kim Phụng, mịt mờ dấu,
Vũ nữ ca nhi huống ở đài.
Người ấy thịnh thời ai dám chống?
Coi thường vua lấn lướt vương hầu,
Mấy lầu chỉ hận tầng cao vút,
Vợ Tiểu Kiều già cho tướng Châu.
Một sớm buổi mai gặp hạn lớn,
Chia hương, giày bán, dặn khổ sầu.
Dâng ăn, đàn hát vui hồn quỷ,
Lỗi lạc trượng phu chưa ngộ sâu?
Riêng có gian hùng mưu kế lạ,
Chẳng như uỷ mị tính đàn bà?
Nghìn khôn muôn khéo cũng thành không.
sông Chương gợn nước xưa đau lòng,
Nghĩ đến họ ta xót nỗi mình.
Bồi hồi, thương kiếp phù sinh,
Anh hùng đến thế mà tình thế sao.
Huống công nhỏ, mỏng danh nào,
Ở đời nghiệp lớn nếu trao còn hoài.
Thì nay đổ chưa cao đài?

Chưa có đánh giá nào
Trả lời