Cửa ngọc trời cao,
Lầu vàng đất mở.

Nước biếc ngàn trùng,
Mây bay vạn ngả.

Lênh đênh thuyền nhỏ, ai biết nơi bồng lai tiên cảnh là đâu,
Mờ mịt đầm khuya, ta chắp mối Hoàng nữ lương duyên kỳ ngộ.

Chốn tiên cung, đã có an bài,
Nơi bến nước, nên duyên chồng vợ.

Nối đời mười chín, thời đại Hùng Vương,
Gái cũng như trai, kế thừa nghiệp cả.

Từ tiên sao hiển phép, theo cơn mưa, dừng chân nơi khí vượng Xích Đằng,
Rồi chặt gỗ dựng lầu, cưỡi làn gió, hạ giáng chốn đất lành Bạch Mã.

Nhà tiên nơi ấy, chó gà chạy nhảy tưng bừng,
Đầm lớn ngẫu nhiên, rồng rắn thi nhau hộ vệ.

Trồng nghìn cây hạnh, thuốc hay chữa khắp miền dân,
Cho vạn gốc đào, ngâm vịnh lan truyền khắp xã.

Đúng lúc:
Trăng thanh đêm vắng,
Sông rộng trời trong.

Hoặc bơi thuyền câu cá,
Hoặc chống gậy nghênh phong.

Dắt tay lên lầu cao, thổi tiêu ngọc gọi chim phượng đến,
Thử kim trên gác vắng, thêu chữ vàng rõ dáng uyên bay.

Nơi trần ai cảnh vật mênh mang, khó bề ở mãi,
Vừng nhật nguyệt rọi soi mờ tỏ, nhớ nghĩa cao dầy.

Dã từ cửa khuyết, dâng sớ tâu bày.
Xin trở lại cõi tiên, để hội cùng bạn cũ.

Kìa Thương Hiệt giỏi bề văn tự, Bàn Cổ chưa xa,
Nọ Xích Tùng biết phép làm mưa, Thần Nông còn nhớ.

Nhìn lên tiên giới, tiếng cầm ca chín vạn dặm đang lừng,
Quay xuống bãi sông, dấu lưu lại ba mươi năm không rõ.

Lâu đài mờ ảo,
Làng xóm hư không.

Sóng sông dào dạt,
Mây núi mênh mông.

Cổ kim chuyện cũ,
Ngô lúa đầy đông.

Trúc Lai công lại mọc thành rừng, đức sinh điềm lạ,
Đào Phan lệnh đâm hoa kết quả, ta cũng thoả lòng.

Cây cam đường Thiệu Bá còn kia, tình dân lưu luyến,
Núi Nghiễn thủ Dương công qua đó, lòng khách vấn vương.

Này sân, này gác,
Thành ấp, thành đô.

Gót tiên phiêu lãng,
Chuyện cũ mơ hồ.

Quây màn tắm bãi, Triệu bắc phương bịa đặt mơ hồ,
Úp nón gậy tre, Tề đông dã truyền tin vô bổ.

Sai đúng chưa tin,
Thực hư khôn biết.

Thân ta thăng hoá về trời,
Mọi người nhớ đầm da diết.

Hòn đá không thể nói nên lời,
Cỏ cây chuyển thành văn chưa hết.

Tích cũ còn ghi trong sách khó tin,
Gót tiên như áng mây trôi bất diệt.

Các ngươi đọc sách phải phân tích kỹ càng, chớ thấy người xưa nói sao tin vậy.
Ta với các người vốn có duyên, nên đã giáng bút làm bài phú “Nhà tiên Dạ trạch” này để giải toả những điều mê hoặc từ ngàn xưa còn lại.
Bảng này nên treo ở chính giữa điện ngoài.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.