Trang trong tổng số 55 trang (547 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Những Tia Chớp



Một tia chớp sáng chói rạch ngang trời làm mấy cháu học sinh nhắm mắt, co rúm người lại: chúng đang chờ sét đánh! Bác Cựu cười bảo chúng:
    - Yên tâm đi các cháu, không việc gì nữa đâu.
    - Tại sao ạ?
    - Sấm sét nổ rồi đấy, nhưng nổ ở xa; ánh sáng có tốc độ nhanh, đến trước; âm thanh tốc độ chậm hơn nên đến sau.
Vừa lúc ấy thì một tiếng nổ xé tròi rền vang mãi. Một cháu hỏi:
    - Như vậy, nếu sấm sét không đánh ngay vào ta thì chớp là dấu hiệu an toàn, phải không thưa ông?
    - Đúng thế, chớp làm thông tin rất tốt.
Rồi bác Cựu nói thêm, chớp không chỉ báo tin an toàn mà còn báo tin lợi ích nữa. Ông Pêrenman - nhà khoa học Nga thời Xô viết, tác giả cuốn Vật lí vui đã bày cách tính toán lợi ích của sấm sét rất thú vị. Cứ mỗi lần sét nổ, năng lượng của nó sẽ phân giải một lượng đạm khá lớn tách khỏi khí trời rồi rơi xuống. Từ đó tính giá tiền của một cú nổ là bao nhiêu Rúp (tiền Nga). Có ngàn vạn cú sấm sét trong mỗi cơn dông nên cái lợi thu được cho nông dân và những người làm vườn không nhỏ. Dân ta cũng có câu “sấm tháng ba ra mọi chuyện”, coi đó là hiện tượng đáng mừng, sẽ được mùa nhờ phân bón trời cho.
Các cháu vui vẻ chào ông ra về.
                                        

    *

 
                                                                                                                                           
Buổi chiều, các mẹ cùng về quê nghỉ hè với các cháu đến chơi. Họ nói với bác Cựu là con cái của họ khoe: “Ông giải thích thiên nhiên hay lắm...”. Bác Cựu nói:
    - Ồ, sấm chớp trên trời ấy mà, các đám mây điện cứ va chạm nhau theo qui luật của chúng. Chuyện xóm làng mới là nhức óc. Con người và công việc va chạm nhau đem đến bao điều đối chọi.
Các bà hỏi:
    - Nghe nói làng ta sắp nổ ra “sấm chớp” mặt đất?
    - Còn tuỳ. Có người làm việc tử tế minh bạch thì nhà nhà yên vui, niềm tin sáng lên như chớp. Gặp người làm việc không có mục đích thì mắc níu, dồn đọng như đống rác giữa làng. Họ gây ra bẩn, cũng muốn đốt đi cho ổn, mà lửa chẳng đỏ lên cho.
    - Rồi có thông thoát được không?
    - Thông tin còn cam chịu thì khói đen vẫn còn âm ỉ...
    - Đến bao giờ thưa bác? Ô nhiễm…  không chịu nổi nữa rồi. Giá mà có một cơn lốc cuốn đi...
Bác Cựu nghĩ: sấm chớp xã hội sẽ không sáng chói và nổ vang như dông bão trên trời. Nhưng với truyền thống đàng hoàng, tự trọng, cố kết, sinh tồn từ bao đời nay chắc chắn sức mạnh dân làng sẽ lại đến lúc làm cho núi sông đồng ruộng quê hương tốt đẹp...
Giờ thì bác phải diễn giải như thế nào đây để các bà yêm tâm, mà chính bác cũng không yên tâm, khi trên dưới thiếu vắng bóng dáng những đầu đàn tin cậy, kẻ sĩ chán ngán trùm chăn, ngôn từ không làm bật ra được ánh sáng, câu thơ thời nào của L. Aragông cứ ám ảnh hoài:

Giữa mùa phản phúc
Tối đen ngục tù
Suối đã đục dòng
Chỉ còn lệ trong...


Thì thật may, các bà đã vội chào tạm biệt bác, đến giờ trở về thành phố.

Đại Lải,  2008
Hồ Phi Phục


Nguồn: http://vanhoanghean.vn/va.../4982-nhung-tia-chop.html
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Hòa thượng Thích Minh Châu: Nụ cười để lại



TT - Sáng 1-9, sau một đêm Vu lan đầy tình yêu thương, như thường lệ, các cựu sinh viên Viện đại học Vạn Hạnh lại tề tựu tại sân thiền viện Vạn Hạnh (đường Nguyễn Kiệm, Q.Phú Nhuận, TP.HCM) để ôn lại tinh thần Vạn Hạnh “tâm, giới, định, tuệ” và thực thi tinh thần ấy bằng những phần học bổng cho sinh viên khó khăn. Lễ phát học bổng vừa chấm dứt, một tin buồn bất ngờ đến: đức trưởng lão hòa thượng Thích Minh Châu, vị “ôn” (ông) thương yêu của Viện đại học Vạn Hạnh, viên tịch.

Tin buồn lao xao truyền đi giữa các hòa thượng, giữa các thế hệ Vạn Hạnh, giữa gia đình phật tử. Các hòa thượng ở tổ đình Tường Vân (Huế) vội vã ra sân bay, thoáng có người rơi nước mắt nhưng rất nhanh, mọi người đã bảo nhau bình tâm. Hiển hiện trong thiền viện này, trong các trang kinh, trong tâm trí những người đã may mắn được gặp và cả chưa từng được gặp luôn là nụ cười hoan hỉ của hòa thượng Thích Minh Châu. Cư sĩ Hà Thúc Hoan khẳng định: “Hòa thượng đã về cõi Phật, riêng nụ cười mang đến an lạc “Tâm bình, thế giới bình. Tâm an, vạn sự an” mà hòa thượng đã tặng cho mọi người trong suốt cuộc đời gần một thế kỷ của mình sẽ vẫn còn ở lại”.

“Ôn dạy: học Phật là học làm người” - ông Hoàng An, một cựu sinh viên Vạn Hạnh, nhắc lại. Gần nửa thế kỷ, bao nhiêu biến thiên lịch sử, các thế hệ tăng ni, phật tử và cả những người không phải phật tử nữa đã được thụ hưởng tinh thần “học làm người” của hòa thượng Thích Minh Châu truyền vào Viện đại học Vạn Hạnh trước đây và Viện nghiên cứu Phật học sau này. Hàng ngàn sinh viên xuất thân từ Viện đại học Vạn Hạnh đã đi khắp thế giới, thành đạt trên rất nhiều ngành nghề và tất cả họ đều biết giữ cái tâm lành và nhân sự lành ấy cho những người xung quanh.

Bà Lê Thị Diệp kể: “Sau khi tốt nghiệp tú tài, tôi muốn theo học chuyên ngành về khoa học xã hội và đã tìm thấy chuyên khoa ấy ở Vạn Hạnh. Sau này các chuyên ngành xã hội rất phát triển và nhiều ứng dụng trong đời sống, còn khi đó Vạn Hạnh gần như là trường duy nhất có khoa này. Điều đó chứng tỏ cái nhìn sâu sắc của hòa thượng Thích Minh Châu”.

Đạo nghiệp của hòa thượng Thích Minh Châu thì kỳ vĩ lắm. Hòa thượng Thích Chơn Thiện nói: “Chúng tôi đi học để học, hòa thượng Thích Minh Châu đi học để chấn hưng Phật pháp, ấy là sự khác biệt”. Sau mấy mươi năm nghiên cứu Phật pháp trong các thiền viện Việt Nam, Sri Lanka, Ấn Độ, hòa thượng đã dịch bộ kinh tạng Pãli để phật tử có Đại tạng kinh Việt Nam. Hơn 30 cuốn sách hoằng dương Phật pháp viết bằng tiếng Anh, tiếng Việt của hòa thượng còn xuất bản đến tận năm 2009, năm hòa thượng đã bước qua tuổi 90. Lệ giảng kinh, thuyết pháp mỗi sáng chủ nhật được thiết lập và lan rộng.

http://i739.photobucket.com/albums/xx31/vodanhthi_photos/Xa%20hoi%20va%20cuoc%20song/Ton%20giao/11ef7795.jpg
Cố đại lão hòa thượng lúc sinh thời, chụp khi nhận bằng tiến sĩ tại đại học Bihar do Tổng thống Ấn Độ trao tặng. Hòa thượng là vị Tăng đầu tiên của Việt Nam xuất dương tu học tại Ấn Độ, Tích Lan về kinh tạng Pali và là vị du học tăng đầu tiên của Việt Nam đỗ đầu tiến sĩ về Phật học cùng nhiều bằng cấp danh dự khác tại các nước. Ông cũng là người đầu tiên phiên dịch ba bộ đại Kinh tạng Pali cho Việt Nam và viết một số tác phẩm bằng hai ngôn ngữ Anh-Việt.



Thiền viện Vạn Hạnh trở thành một địa chỉ tâm linh của TP.HCM. Phật tử các hệ phái Nam tông, Bắc tông, Đại thừa, Tiểu thừa hiểu được cái gốc chung, cái quả chung để mà dung hòa, buông bỏ những chấp thủ, chia rẽ... Hòa thượng Thích Minh Châu góp phần làm cho đạo Phật trở nên đời hơn, các giáo lý Phật pháp đi vào đời sống với những ánh lấp lánh, như châm ngôn của Viện đại học Vạn Hạnh “Duy tuệ thị nghiệp” (Lấy trí tuệ làm sự nghiệp).

“Sự nghiệp của ôn cần cả pho sách, ôn dạy chúng tôi bằng cả trí tuệ và đạo hạnh của người” - các học trò, đệ tử của trưởng lão hòa thượng Thích Minh Châu hôm nay đồng lòng nhận định vậy. Và từ mọi nơi, họ cùng tụ về thiền viện Vạn Hạnh để chung tay lo lễ nhập diệt cho thầy, ai cũng rất mực tận tâm, cung kính. Ấy thế nhưng khi tại thế, được trọng vọng khắp năm châu bốn biển, hòa thượng Thích Minh Châu lại chỉ muốn mọi người gọi mình là một tỳ kheo, người xuất gia với đạo nghiệp phổ độ chúng sinh, và chỉ nhận “Cả đời tôi là làm giáo dục”.

Với Viện đại học Vạn Hạnh, Học viện Phật giáo Việt Nam, hơn 70 năm phục vụ “khẩu giáo, thân giáo, ý giáo”, đạo nghiệp ấy của hòa thượng Thích Minh Châu đã thành. Hôm nay nhập cõi niết bàn, nụ cười an lạc của hòa thượng Thích Minh Châu sẽ còn ở lại, như lời đạo ca chốn thiền môn: Dù đời còn nhiều kham khó/ Lòng nguyện không hề âu lo/ Nụ cười hiền hòa không thiếu/ Ánh mắt sáng ngời thương yêu...            

PHẠM VŨ
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
Nhà văn Nguyên Ngọc: Cần phản tư về nguyên nhân gốc của sự suy thoái văn hóa và giáo dục

Thứ hai, 03 Tháng 9 2012 10:38
Nguyên Ngọc - Nguyễn Thị Từ Huy

VHNA : Văn hoá và giáo dục  gắn liền với cuộc sống và số phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cả cộng đồng quốc gia – dân tộc. Rõ ràng là văn hoá và giáo dục của nước ta trong nhiều thập kỷ qua có nhiều biến động và sa sút, xuống cấp. Cả xã hội đã và đang bàn về vấn đề này và cho đến nay vẫn đang ở trong vòng quanh co, chưa có một đường hướng rõ ràng, cụ thể để đưa văn hoá và giáo dục nước nhà thoát ra được cuộc khủng hoảng với những hy vọng có cơ sở. VHNA giới thiệu cuộc trao đổi của nhà văn Nguyên Ngọc với TS Nguyễn Thị Từ Huy với hy vọng góp một tiếng nói đáng tham khảo với bạn đọc.

Nguyễn Thị Từ Huy:  Thưa nhà văn Nguyên Ngọc, từ nhiều năm nay, sự xuống cấp của văn hóa và giáo dục đã trở thành một sự thật hiển nhiên với quá nhiều bằng chứng được nêu công khai trên báo chí, và mỗi một cá nhân hay mỗi một gia đình đều trải nghiệm nó trong đời sống hàng ngày. Thực ra văn hóa và giáo dục liên quan rất chặt chẽ với nhau. Là một người làm việc trong cả hai lĩnh vực, và đặc biệt quan tâm tới cả hai lĩnh vực (nói điều này có vẻ thừa nhưng thật ra lại không thừa, vì thực tế là hiện nay ở ta nhiều người làm việc trong lĩnh vực giáo dục mà không quan tâm đến giáo dục, làm việc trong lĩnh vực văn hóa mà không quan tâm đến văn hóa), nhà văn có thể nói rõ hơn về việc sự xuống cấp của cái này kéo theo sự xuống cấp của cái kia như thế nào ? Đâu là căn nguyên sâu xa của tình trạng suy thoái của văn hóa và giáo dục hiện nay?

Nguyên Ngọc:  Trước hết xin nói về quan hệ giữa văn hóa và giáo dục. Có thể nhận thấy điều này: ở nhiều nước và là những nước tiên tiến, bộ trưởng giáo dục hầu như bao giờ cũng là nhà văn hóa lớn. Hơn thế nữa, khi nảy sinh những vấn đề quan trọng về giáo dục, vị bộ trưởng ấy, hoặc chính thủ tướng chính phủ, thường mời một hay một số nhà văn hóa lớn, có tầm bao quát sâu rộng về xã hội, thậm chí là nhà triết học xã hội hàng đầu, làm cố vấn, nghiên cứu, thiết kế, đề xuất những dự án căn bản về cải cách giáo dục. Và nhiều nhà văn hóa lớn thường cũng là nhà giáo dục lớn. Trường hợp Edgar Morin ở Pháp là như vậy. Edgar Morin cố gắng nhận diện xã hội trước những chuyển biến có tính cách mạng của thời đại tác động dữ dội đến tư duy và cuộc sống của con người, để suy nghĩ, bàn luận và đưa ra những kiến nghị cơ bản đối với giáo dục.

Như vậy, nói theo cách nào đó, những vấn đề của văn hóa và của giáo dục là một. Đó là những vấn đề con người của một xã hội, với tất cả những điều kiện để lại từ quá khứ, những hoàn cảnh hiện tại, và những thách thức sẽ đến, phải đối diện để tồn tại và phát triển. Vấn đề lớn nhất của giáo dục bao giờ cũng là vấn đề văn hóa (của xã hội); và để giải quyết văn hóa trong một xã hội, giáo dục phải lãnh vai trò quan trọng nhất.

Ở ta hiện nay nói rằng văn hóa và giáo dục xuống cấp, cái này kéo theo cái kia, trong cả xã hội xuống cấp, thì là cách nói chẳng có gì mới. Tôi nghĩ cần chú ý và nói rõ hơn điều này: đà lao xuống dốc đang tăng tốc đáng sợ và khủng hoảng đã đến báo động đỏ, cảm giác chung là đụng đến đâu cũng chạm phải hỗn loạn, mục ruỗng, từ cái cơ bản cho đến cái chi tiết, cụ thể. Tất nhiên là phải tìm nguyên nhân, nhưng trong một tình hình cực đoan đến vậy thì phải tìm nguyên nhân rất xa, phải trở lại xa. Tôi thường cố suy nghĩ về điều này và bắt gặp một lý giải có thể rất gần gũi với ta. Đấy là những ý kiến của Maxime Gorki năm 1918, nghĩa là ngay giữa những ngày sôi nổi của cách mạng tháng Mười Nga. Tỉnh táo lạ thường ngay trong không khí hứng khởi tột cùng ấy, với tư cách của một nhà văn hóa lớn, cực kỳ dũng cảm và đầy trách nhiệm ông viết : « ... Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần ... ». Sau 1975, chúng ta đã không đủ tỉnh táo và cả dũng cảm để nhận ra và nói rõ rằng cách mạng và chiến tranh giải phóng anh hùng 30 năm đã giành lại được độc lập và thống nhất cho đất nước, nhưng những căn bệnh chí tử của xã hội đã khiến dân tộc phải đối mặt với những nan đề văn hóa và xã hội mà một trăm năm trước các nhà duy tân sáng suốt nhất thời ấy đã nhận ra và cố tìm cách giải quyết. Những nan đề lớn và lâu dài, cơ bản đó một trăm năm nay vẫn còn nguyên đấy. Còn nguy hơn, nó lặn vào trong nội tạng. Chúng ta đã không đủ tỉnh táo và dũng cảm để như Gorki biết và nói rõ rằng cách mạng và chiến tranh rất vĩ đại nhưng không chữa trị được cho đất nước và xã hội về mặt tinh thần.

Hơn thế nữa, những phương tiện đã buộc phải mượn để chiến thắng với bất cứ giá nào trong cách mạng và chiến tranh, éo le vậy, vừa cần thiết cấp thời lại vừa có « phản ứng phụ »  không tốt đối với xã hội và con người. Nghĩa là nội tạng của xã hội vừa còn nguyên bệnh mãn tính cũ, lại vừa nhiễm thêm bệnh mới, như ta biết có chỗ đến tận những tế bào cơ bản nhất của cơ thể xã hội. Nếu không thì làm sao giải thích được sự sa sút cứ như « đột ngột », lạ lùng, lại ngay sau chiến thắng huy hoàng?

Ai cũng biết lịch sử không có « nếu ». Lịch sử thì đã là lịch sử. Nhưng nhận ra những gì lịch sử đã tạo dựng cho hôm nay và những gì lịch sử để lại nợ nần hôm nay phải biết và phải trả, bao giờ cũng là cần.

Chẳng nên trách ai. Trách chăng là ta đã không đủ hiền minh để tỉnh táo sau 1975.  Vậy thì bây giờ cần tỉnh táo. Và dũng cảm nhìn vào sự thật thẳng thắn và sòng phẳng. Hầu như đó là con đường sống duy nhất.

NTTH : Tuy nhiên, dường như có sự khác biệt rất lớn trong đánh giá về thực trạng của giáo dục và văn hóa. Theo ông những bộ phận nào trong xã hội cảm thấy lo lắng và hiểu rõ các bất cập của hai lĩnh vực này, những bộ phận nào của xã hội chúng ta cảm thấy hài lòng, thậm chí còn cố gắng duy trì tình trạng hiện nay. Và vì sao ?

Nguyên Ngọc:  Thực ra ngay trong mỗi bộ phận trên - nếu ta cứ cho là có hai bộ phận như thế - cũng có những khác biệt. Thấy suy thoái và lo lắng về suy thoái thì nhiều, song nhận thức về tính chất của suy thoái thì khá khác nhau. Phần đông nhìn ở những nguyên nhân gần, ở chủ trương, chính sách này nọ, hoặc ở tính khí, phẩm chất của cá nhân này cá nhân kia ... Và khi thấy thay đổi những cái đó rồi hóa ra cũng lại y như cũ thì hoang mang, chán nản. Một bộ phận nhỏ nhìn xa hơn, nhưng do những e dè kiêng kị đã thành nếp cũng không dám truy tìm cho đến cùng. Đấy là nói về phía nhân dân rộng rãi, không bị chi phối nhiều bởi những lợi ích do chính sự suy thoái kia đem lại.

Đối lại ở phía bên kia là những người hài lòng với tình trạng hiện nay, trong đó có số do mù quáng, chai lì vì quán tính giáo điều đã quá lâu, và do bị bưng bít có chủ ý cũng có.

Cuối cùng là những người thật sự ra sức duy trì tình trạng này, dùng toàn bộ sức mạnh để bảo vệ nó. Đơn giản chỉ vì lợi ích ích kỷ bất chấp tất cả của họ. Bao giờ cũng vậy, số này không nhiều, nhưng là mối nguy chính, trước mắt và lâu dài.

NTTH :  Nhiều vấn đề cốt lõi của văn hóa giáo dục đã được thảo luận từ lâu, nhiều kiến nghị đề xuất đã được đưa ra từ lâu. Nhiều đề xuất dựa trên các nghiên cứu cẩn thận, chẳng hạn như các đề xuất của nhóm các học giả nước ngoài Ben Wilkinson (Trường Kennedy, đại học Harvard) và Laura Chirot (trường New School). Tuy nhiên, tình hình chung là các kiến nghị đó, các đề xuất đó đều bị rơi vào im lặng và quên lãng. Và theo thời gian thì mọi việc càng ngày càng tồi tệ hơn. Đã đến lúc chúng ta cần phải phân định một cách rạch ròi trách nhiệm mà mỗi người, mỗi bộ phận chức năng phải đảm nhận. Ở đây ta chỉ nói đến hai bộ phận sau : bộ phận quản lý (với các cấp khác nhau), bộ phận thực hiện (giảng viên giáo viên trong lĩnh vực giáo dục, những người làm công việc phổ biến, truyền bá trong lĩnh vực văn hóa). Theo ông, các bộ phận này đã đóng vai trò như thế nào trong quá trình suy thoái của văn hóa và giáo dục ?

Nguyên Ngọc:  Đã có những kiến nghị sâu sắc, khá toàn diện, tâm huyết, không chỉ của các chuyên gia và tổ chức nước ngoài, mà ngay của các trí thức và tổ chức trong nước. Nói chung đến nay tất cả đều bị bỏ qua, không chỉ không hề có phản hồi, mà thậm chí không được ngó qua, đếm xỉa đến. Có một sự tắc trách, vô cảm đến kỳ lạ ở những người và những bộ phận có trách nhiệm. Song mặt khác, theo tôi có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, các kiến nghị ấy đều dừng lại ở mấp mé của nguyên nhân gốc, dù nếu với thiện chí và chăm chú đôi chút người đọc cũng có thể nhận ra những ý tứ không quá che kín. Tôi nghĩ đã đến lúc sòng phẳng nói ra một lần cho rõ, bởi chắc chắn nếu không nhìn thẳng đến tận đấy thì rồi sẽ cứ lẩn quẩn mãi trong bế tắc lùng nhùng, không sao gỡ ra được, như lâu nay đã là thế.

Tôi không chia những người phải chịu trách nhiệm thành bộ phận quản lý và bộ phận thực hiện. Tôi nghĩ theo cách khác: Cần có một sự phản tư cơ bản của toàn xã hội về nguyên nhân gốc của suy thoái, tất nhiên trước hết là ở những bộ phận có trách nhiệm và có quyền ở tầm vĩ mô, song rồi sau đó cũng phải thành nhận thức chung của mọi người. Một sự nhìn nhận lại thẳng thắn và bình tỉnh.Nhân đây tôi cũng muốn nói rõ thêm điều cần thiết này. Khi ta nói thẳng chẳng hạn về sự sa sút tệ hại của giáo dục thì không nên nghĩ đó là đánh giá chung về phẩm cách của tất cả những người thầy giáo chúng ta. Thậm chí ngược lại, có thể nói trong tình trạng chung hiện nay, còn giữ được giáo dục chưa đổ nát hoàn toàn là công của những giáo viên và cán bộ giáo dục vô danh tâm huyết, nhất là ở cơ sở. Tuy nhiên lại cũng phải nói rằng thật khó cho họ giữ mình trọn vẹn dưới áp lực của một nền giáo dục dang suy thoái có tính chất hệ thống như vậy. Gần đây, trong một ngữ cảnh khác có người đã dùng đến cách nói « tội làm hỏng dân ». Ai làm hỏng ? Đương nhiên là cái hệ thống kia.

NTTH :  Nếu không có sự cải thiện, nếu chúng ta tiếp tục tuột dốc như hiện nay thì sẽ có những nguy cơ nào cho tương lai chung của chúng ta.

Nguyên Ngọc :  Nguy cơ đã nhãn tiền: sẽ mãi mãi là một đất nước lạc hậu lân đận ở hàng cuối nhục nhã ngay cả đối với trong khu vực, và do đó cả an nguy của quốc gia cũng bị thách thức.

NTTH :  Cuối cùng, để có thể cải thiện tình trạng văn hóa và giáo dục hiện nay, những người quản lý văn hóa và quản lý giáo dục cần có những năng lực nào, những phẩm chất nào ?

Nguyên Ngọc :  Đương nhiên có rất nhiều chuyện cụ thể phải giải quyết về văn hóa và giáo dục. Nhưng tất cả đều chỉ có thể giải quyết đến nơi đến chốn trong một tổng thể mới trên cơ sở phản tư sâu sắc về nguyên nhân gốc của suy thoái. Nếu không thì cố gắng đến mấy cũng sẽ chỉ là vá víu lặt vặt, có khi càng làm rối và nặng thêm tình hình.

Vì vậy tôi cho rằng năng lực và phẩm chất quan trọng nhất của người làm văn hóa và giáo dục hiện nay trước hết là năng lực truy tìm đến nơi đến chốn nguyên nhân gốc của khủng hoảng, và ý chí thay đổi trên nhận thức sâu sắc đạt được ấy.

Cũng tất nhiên trước hết là ở người chịu trách nhiệm và có quyền lực cao nhất.

Không có được điều ấy, thì sẽ là vô vọng.


Hội An, ngày 20/8/2012

Nguồn: http://vanhoanghean.vn/nh...van-hoa-va-giao-duc-.html
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
Trăm Gian và tâm…gian!

Thứ hai, 03 Tháng 9 2012 22:41
Kỳ Duyên

Tiếng Việt thật kỳ diệu. Đồng âm mà không đồng nghĩa. Ở nơi này, là câu chuyện về 1 ngôi chùa-  Trăm Gian. Ở nơi kia, là cái tâm…gian của con người. Cái “gian” chính đạo đang chịu kiếp nạn của con người. Còn cái “gian” tà đạo đang chịu kiếp nạn của …chính mình.

Thế là cuối cùng, vụ việc Chùa Trăm Gian, (thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ- Hà Nội), di tích văn hóa quốc gia, bỗng dưng được…phẫu thuật thẩm mỹ, theo kiểu “Đập cổ kính xưa, dựng chùa mới” (Lao động, 26/8), đã được Sở Văn hóa- Thông tin và Du lịch chính thức đưa ra những kết luận ban đầu, tại cuộc họp báo chiều 30/8. Sau biết bao ồn ào, kinh ngạc, phẫn nộ và bất bình của dư luận xã hội.

Văn hóa thấp gặp cái tầm…thấp?

Theo ông Giám đốc Phạm Quang Long, đã có sự xâm hại di tích, vi phạm nghiêm trọng Luật Di sản. Cụ thể 3 hạng mục bị xâm hại, trong đó 2 hạng mục quan trọng là gác Khánh, nhà Tổ, cùng với bậc cấp sân trước tiền đường.

Chùa Trăm Gian được lập từ đời Lý Cao Tông, năm 1185, công trình kiến trúc "độc nhất vô nhị". Dường như các bậc tiền nhân, khi dựng nên ngôi chùa có kiến trúc độc đáo, muốn gửi thông điệp của quá khứ cho hiện tại về tài hoa lao động, trí tuệ trác tuyệt tạo nên vẻ đẹp văn hóa và kiến trúc một thời đại.

Đâu ngờ, thế hệ hậu bối, ở thời văn minh công nghiệp, với kỹ thuật- công nghệ, và vật liệu tân tiến, lại gửi “thông điệp”…phản văn hóa, phi văn hóa cho các bậc tiền nhân. Khi sơn lại tranh tượng quý bằng sơn công nghiệp Nippon; làm mới bệ tượng, bàn thờ bằng ximăng, gạch ốp lát công nghiệp xanh đỏ tím vàng; xây mới các dãy hành lang, đánh bóng cột kèo bằng vécni…

Thì đến tiền nhân cũng khóc, chả cứ người đời.

Đến nước này, một loạt các “bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ” bất đắc dĩ cho chùa, phải chịu dao kéo, lẫn búa rìu dư luận, và bị đình chỉ hoạt động… phi pháp. Cho dù họ có ý thức hẳn hoi, chứ không phải “vô thức” nhé- như lời bà Nguyễn Thị Thùy, Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, HĐND TP Hà Nội từng nhận định một cách…vô ý thức!

Nhưng khi cuộc họp báo chính thức đầu tiên khép lại, cũng là lúc mở ra biết bao vấn đề còn rối như mớ bòng bong, về tư duy văn hóa, về trách nhiệm, thẩm quyền tu tạo, đặc biệt là cơ chế quản lý, bảo vệ di sản văn hóa, di sản vật thể quốc gia. Liệu vụ việc Chùa Trăm Gian có gợi mở cho các nhà quản lý văn hóa kế sách gì không?

Vì sao, Chùa Trăm Gian kêu cứu vì xuống cấp quá nhiều hạng mục, cách đây đã 2 năm, và cũng đã được đưa vào danh sách đỏ của thành phố cần duy tu, sửa chữa, bảo tồn từ năm 2010, vậy mà ngay cả khi chùa bị xâm hại, bị “cưỡng bức” làm mới, ông Giám đốc Sở VH- TT và DL vẫn cứ viện lẽ kinh phí (hơn 10 tỷ đồng) quá khó khăn. Do phải thực hiện Nghị quyết 11phát triển kinh tế, nên sở đành…chờ?.

Chả lẽ, Chùa Trăm Gian “đứng ngoài” Nghị quyết? Và văn hóa không phải là sự phát triển xã hội?

Hay chính những người làm văn hóa cũng quan liêu, thờ ơ, vô cảm với sự xuống cấp của văn hóa, chỉ quan tâm tới …kinh tế? Khiến nhà chùa phải phát công đức kêu gọi người dân?

Tiếc thay, nhiệt tình + dốt nát= phá hoại. Công thức nổi tiếng của 1 nhà chính trị thời cận đại vẫn còn nguyên giá trị trong thời hiện đại.

Chứng cớ, là ngay sau khi sự việc đau lòng xảy ra, trước phản ứng dữ dội của báo chí và dư luận xã hội, ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBNDTP đã ngay lập tức chỉ đạo cấp vốn cho dự án và phê bình lối tư duy xơ cứng. Thôi thì mất…chùa mới lo cứu chữa. Muộn còn hơn không!

Nhưng vì sao, một tài sản- di tích quốc gia nổi tiếng như vậy, lại được phân cấp quản lý cho huyện? Để rồi huyện lại tiếp tục phân cấp triệt để cho xã, cấp quản lý hoàn toàn…mù tịt về cách bảo tồn, di tích và không có thẩm quyền?

Sự nhận thức nông cạn của cấp xã về bảo tồn di sản văn hóa quốc gia, đã dẫn đến lối nghĩ tùy tiện, hồn nhiên và ngây thơ, dẫn đến sự tàn phá di sản, vi phạm luật pháp.

Cứ nghe cụ Tuệ, người phụ trách “dự án trùng tu” chùa này ở địa phương, đủ biết: Di tích còn tốt, gỗ lạt còn tốt, nhiều cái không cần thay, cứ để vậy thì còn lâu mới hỏng, nhưng có điều kiện thì chúng tôi tổ chức dỡ ra, thay mới toàn bộ cho nó bền…. Không lấy lại một cái cấu kiện cũ nào cả. Thay tất (?). Hệt một lão nông hể hả sửa căn nhà của mình, cho nó “bằng anh, bằng em”!

Vì sao, mà ông Nguyễn Xuân Thành, Chánh Thanh tra Bộ VH- TT và DL, trả lời báo Đất Việt, lại phát ngôn một cách thản nhiên, và dửng dưng, nếu không nói là thật…nông cạn: Làm lại thôi chứ có gì đâu! Chánh Thanh tra 1 Bộ quản lý văn hóa, mà tư duy văn hóa chẳng kém 1 nông dân suốt đời luẩn quẩn sau đuôi trâu!

Đến mức GS Trần Lâm Biền phải ví von bi hài: Di tích như người già bị ốm. Nếu bố tôi bị ốm, tôi đem đến cho bác sĩ chữa nhưng bác sĩ lại giết béng bố tôi đi, đưa cho tôi ông già khác bảo là bố tôi thì có chấp nhận được không? Di tích bị xây mới thì không còn là nó nữa!

Tầm của xã như vậy, lại gặp… cái tâm, cái tầm của Sở, của Bộ như vậy, trách chi Chùa Trăm Gian chả “nham nhở” như hiện nay?

Mà Chùa Trăm Gian đâu phải là “nạn nhân” đầu tiên của cái tầm, cái tâm văn hóa kiểu ấy?

Xã hội ta từng đau đớn, một nàng Vọng Phu hóa…bê tông, một Thành Nhà Mạc hóa…lò gạch. Và ngay cả Ô Quan Chưởng, tuy được bảo tồn nghiêm cẩn hơn, nhưng xung quanh, môi trường bị ô nhiễm vì khai mù, hôi hám, rác rưởi bẩn thỉu đến hổ thẹn và xót xa.

Một Ô Quan Chưởng danh tiếng trong 5 cửa ô của Hà Nội còn sót lại (Ô Cầu Giấy, Ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, Ô Đông Mác và Ô Quan Chưởng) mà bị đối xử thô lậu, phũ phàng. Cơ quan chức năng đã vậy, dân cũng lại vậy, văn hóa có còn là …văn hóa?

Những di tích văn hóa mang trong lòng nó lớp lớp trầm tích của thời gian, của lịch sử, của cổ tích và quá khứ, làm rung động cả nhân gian bao thời đại. Nó là tinh hoa, là tài hoa, trí tuệ của các bậc tiền nhân. Nay bỗng trở nên vô hồn, chắp vá nham nhở.

Chùa “vô hồn” hay thực ra con người đã vô hồn, vô tình, vô cảm với chính văn hóa! Tòa án lương tâm của nhiều vị, dường như đã đóng… im ỉm từ lâu rồi?

Được biết, Chùa Trăm Gian sẽ được bảo tồn “lại”, theo kế hoạch của thành phố. Nhưng liệu “hồn vía” của chùa, sau kiếp nạn vừa rồi có quay trở về được nữa không?

Tâm gian giữa… biển Mê?

Kinh tế thị trường mở ra, diện mạo xã hội có nhiều cơ may đổi mới, tăng tiến. Nhưng cùng đó những rủi ro, họa hại cũng khôn lường. Đó là tham nhũng và các nhóm lợi ích liên kết chặt chẽ, chi phối và kìm hãm sự phát triển của quốc gia

Năm Nhâm Thìn chưa kết thúc, nhưng nhân thế đang tiếp tục chứng kiến số phận của không ít các doanh nhân, đại gia bị năm Rồng “cuốn” vào vòng lao lý.

Mới nhất là vụ bầu Kiên- 1 đại gia lừng lẫy đến mức được “tôn vinh” lên hàng Bố già, bị cơ quan chức năng bắt vào chiều 20/8. Bầu Kiên là 1 “hiện tượng”, 1 số phận, mà rồi đây chắc chắn, lịch sử bóng đá và lịch sử tài chính ngân hàng sẽ còn phải nhắc đến với tất cả tài năng cùng thủ đoạn, quyền lực ngầm thâu tóm, lũng đoạn của ông ta.

Trước đó, Phạm Thanh Bình, nguyên Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vinashin) bị 20 năm tù giam vì tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng, kéo theo cả 1 dây các cộng sự thân tín dưới quyền bóc lịch theo.

Hiện tượng con tàu nát Vinashin và “thuyền trưởng” Phạm Thanh Bình chắc chắn sẽ được “tiễn đưa” vào giáo án của Luật Kinh tế, vào lịch sử kinh tế VN, về 1 mô hình doanh nghiệp chủ đạo, trong 1 cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn quá nhiều sơ hở, khiếm khuyết.

Rồi 1 Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch HĐ thành viên Tổng Công ty Hàng hải VN (Vinalines), bị khởi tố đã trốn chạy, chui lủi nơi nào, giờ không ai rõ. Đến mức Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, kiêm Trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Trung ương đã quyết liệt chỉ đạo: "Phải bắt bằng được Dương Chí Dũng".

Mới đây, Phạm Văn Thụ, Chủ tịch kiêm TGĐ Công ty Thép Thái Sơn cũng bị bắt về hành vi "lừa đảo, chiếm đoạt tài sản" liên quan đến các khoản vay ngân hàng. Con trai ông Thụ là Phạm Hải Thanh, nguyên TGĐ công ty Thép Thái Sơn, cũng bị khởi tố cùng tội danh. Rút cục, 2 cha con ông giờ đây… chung 1 cảnh lao tù.

Điều oái oăm, năm 2011, công ty Thép Thái Sơn từng lọt vào top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất VN. Đến khi bị bắt, 2 cha con ông cùng là… con nợ khủng, với con số 1300 tỷ đồng. Vòng nguyệt quế và thân lao tù trong thời kim tiền này, đắng thay, mong manh quá, chỉ cách nhau 1 chữ ký ...

Rồi Phan Minh Anh Ngọc - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Chứng khoán Cao Su (RUBSE), nguyên Tổng GĐ Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Cao Su Việt Nam (RFC), bị bắt tạm giam vì "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" khi còn là Tổng GĐ RFC.

Rồi Hoàng Xuân Quyến, nguyên Tổng GĐ Chứng khoán Liên Việt, Phan Huy Chí, Chủ tịch Chứng khoán SME, cũng bị bắt tạm giam, liên quan đến những hành vi sai phạm về tài chính, v.v và v.v…

Có 1 cuốn sách, hồi nhỏ, người viết bài từng đọc, và rất ấn tượng: “Bút ký người dự thẩm”. Đó là tác phẩm của một người dự thẩm chuyên dự các phiên tòa xét xử các vụ án kinh tế, giai đoạn tân kinh tế của nước Nga Xô viết (cũ). Thế nhưng, giá mà những tội phạm kinh tế thời đó còn sống, hoặc sống dậy, chắc chắn họ cũng phải vái lậy các đại gia VN giai đoạn này.

Kinh tế thị trường nước ta đi sau kinh tế thị trường nhiều quốc gia văn minh. Có thể quan sát, và dự báo được quy luật thực tiễn, để ngăn ngừa và tránh được những “vết xe đổ”.

Nhưng vì sao các doanh nhân, các đại gia nói trên lại chỉ bị phát hiện, bị truy tố và bắt giam khi đã gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, để lại di họa cho cả xã hội, tước đoạt và lãng phí hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế mồ hôi công sức của nhân dân không thương tiếc?

Họ phạm tội, sẽ phải trả giá. Nhưng cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, với hệ thống và vai trò giám sát, kiểm tra, thanh tra theo chức năng, liệu có…vô can? Con số 275 bị can về các tội danh tham nhũng bị khởi tố, 451 bị can bị Viện Kiểm Sát truy tố và 251 bị cáo bị tòa án xét xử về tội tham nhũng, liệu mới chỉ là “phép nổi” của tảng băng?

Vỏ quýt dầy, móng tay nhọn. Tiếc thay, móng tay nhọn- ở đây là cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, là Luật Phòng chống tham nhũng lại chưa thật…nhọn. Thế nên, rút cục xã hội vẫn phải tiếp tục đóng “học phí giá cao” cho kinh tế thị trường ở VN.

Nhà Phật có câu: Hồi đầu thị ngạn, tức quay đầu lại là bờ giác (ngộ). Nói như một phật tử: Biển Mê và bờ Giác chỉ cách nhau có 1 cái quay đầu.

Thế nhưng, các đại gia ngày nay, mắt vẫn sáng, tai vẫn tinh, mũi vẫn thính, sức khỏe vẫn dồi dào, nhưng …biển Mê rộng dài quá, nên mắt vẫn nhìn mà không thấy bờ, tai vẫn thính mà ko muốn nghe thấy tiếng gọi của bờ. Rút cục, họ quay đầu vào chốn…lao tù

Đó là cái giá đắt cho cái tâm…gian giữa biển Mê.


Tham khảo:

http://www.tienphong.vn/v...a-chua-tram-gian-tpp.html

http://baotintuc.vn/129n2...-nuoc-da-do-xuong-dat.htm

http://vietnamnet.vn/vn/c...m-gian--loi-vo-thuc-.html

http://vietnamnet.vn/vn/c...thoi-chu--co-gi-dau-.html

http://vef.vn/2012-08-22-...et-nga-ngua-nam-nham-thin

http://vietnamnet.vn/vn/c...ia-sau-chan-song-sat.html

http://vnexpress.net/gl/p...-pham-thau-tom-ngan-hang/

Nguồn:http://vanhoanghean.vn/van-hoa-va-doi-song/cuoc-song-quanh-ta/4993-tram-gian-va-tamgian.html
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Bông Hồng Cài Áo


Để dâng mẹ và để làm quà Vu-lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ.
Medford, Hoa Kỳ, tháng tám, 1962,
Nhất Hạnh


http://i739.photobucket.com/albums/xx31/vodanhthi_photos/Hoa%20va%20hoa%20khe%20da/753cf6e4.jpg



Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi, héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến:

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời!
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Ðể dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? hay là tơ trời đâu-la-miên?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.

Ðạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Ðạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Phương Tây không có ngày Vu-lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng.

Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu-lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Ðừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!" Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Ðòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Ðể mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Ðể khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!"

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu-lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục-kiền-liên và về sự hiếu đễ. Công cha,
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Bông Hồng Cài Áo


(tiếp theo và hết)

http://i739.photobucket.com/albums/xx31/vodanhthi_photos/Hoa%20va%20hoa%20khe%20da/4d86afb8.jpg



nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.

Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Ðó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi "làm thế nào" nữa!

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Ðể mai này anh chị đừng có than thở rằng: Ðời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Ðáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác". Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. "Cắt ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quý báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: "Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!" Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết -- tôi không giảng luân lý đạo đức -- rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: "Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương". Ðể chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn: Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này: Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh, chị cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.

Ðó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Ðóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

Nhất Hạnh (1962)
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Tranh cãi quanh bức ảnh ‘khiến người Việt xấu hổ’



(ĐVO) Một bức ảnh được cho là của khách du lịch Việt Nam chụp tại một nhà hàng buffet (ăn uống tự chọn) ở Thái Lan đã khiến cộng đồng mạng “nổi sóng”.

Bức ảnh này ghi lại hình ảnh một tấm biển có dòng chữ Việt chưa chuẩn cú pháp, nội dung như sau: “Xin vui lòng ăn bấy nhiêu lấy bấy nhiêu, nếu ăn không hết sẽ phạt từ 200 bath đến 500 bath. Xin cám ơn”.

http://media12.baodatviet.vn/2012/09/06/C140684_buffet.jpg



Bức ảnh đã lan truyền trên mạng xã hội Facebook và nhiều diễn đàn của giới trẻ, gây ra những phản ứng mạnh mẽ từ các thành viên mạng. Nhiều thành viên khẳng định mình cảm thấy xấu hổ sau khi xem bức ảnh”.

“Những người quản lý nhà hàng Thái hẳn đã nhiều lần chứng kiến những vị khách Việt Nam để lại đồ ăn thừa - điều tối kỵ trong văn hóa buffet. Mình cảm thấy thật ngượng vì bức ảnh này”, thành viên nick Ốc Sên bình luận trên mạng xã hội Facebook.   

Trên diễn đàn Dienchau.com, thành viên nick Synthesis cho rằng đây không phải là một chuyện hiếm gặp tại các nhà hàng Thái: “Chuyện này biết lâu rồi. Lần nào đưa đoàn tour sang Thái là lần đó thấy dòng chữ này, chỉ biết cúi mặt mà đi”.

Thành viên N.O.V.A (diễn đàn Vietyo) còn ghi nhận chuyện tương tự ở Singapore: “Mình vào một nhà hàng buffet bên Singapore họ cũng ghi bằng tiếng Việt là ‘Lấy vừa đủ ăn’, đọc mà chạnh lòng, xấu hổ”.

Không ít thành viên khẳng định, chuyện người Việt thiếu vắng văn hóa tiệc buffet là hiện tượng có thật, vẫn diễn ra thường xuyên tại các nhà hàng trong nước. “Mình thường xuyên đi ăn buffet, thấy nhiều anh chị lấy cả đĩa đầy ắp đồ ăn. Nói thật, toàn đồ dầu mỡ, nhìn thì thích cứ ăn vài cái là ngán ngay”, thành viên Hellsing, diễn đàn Linkhay kể.

Vụ việc này cũng khiến các thành viên liên hệ tới clip “giành giật ăn buffet” tại một nhà hàng ở Việt Nam đã làm xôn xao cộng đồng mạng cách đây chưa lâu. Trong clip này, các thực khách đã đỗ xô vào giành giật khiến cả khay hải sản lớn “bốc hơi” chỉ trong nháy mắt.

Từ bức ảnh, vấn đề văn hóa ăn uống của người Việt Nam được đem ra mổ xẻ. “Người Việt có câu: Học ăn học nói học gói học mở nhưng trong chuyện ăn buffet thì vẫn còn tiếp thu chậm lắm. Do nếp tư duy của người làm nông còn sót lại mà nhiều người vấn có suy nghĩ rằng ăn bao nhiêu cũng chỉ tốn từng đấy tiền thì tội gì mà chẳng lấy nhiều cho nó… lãi”, thành viên Tony Nguyen nhận xét.

Tuy nhiên, bên cạnh luồng ý kiến phê chê trách, cũng có những thành viên cho rằng chuyện nhà hàng Thái trưng biển báo là điều không có gì đặc biệt.

Thành viên nick dgcd (Linkhay) cho rằng những tấm biển như vậy chỉ xuất hiện với các đoàn khách Việt Nam đi theo tour, và điều này hoàn toàn bình thường.

Thành viên này bình luận: “Các bạn nâng cao quan điểm quá. Mình đã qua Thái, và thường nhà hàng nào có nhiều khách Việt Nam đến (theo hợp đồng với cty du lịch) thì họ sẽ để hướng dẫn bằng tiếng Việt, không có gì lạ cả. Bên cạnh đó còn có bảng tiếng Anh.

Các bạn có thể ngạc nhiên, nhưng nếu đi the tour thì 90% nhà hàng mà bạn đến sẽ có ghi bảng tiếng Việt như vậy. Dân Việt Nam du lịch qua Thái rất đông, mình ở khách sạn bên Thái mà đi ra đi vào toàn nghe tiếng Việt”.

Thành viên TanNg nhận xét: “Chỗ đó dân du lịch Việt Nam qua nhiều thì họ thêm cái bảng tiếng Việt cho người Việt đọc có gì lạ. Hài hước nhất là khi các bạn sang Singapre, Nhật thấy dòng chữ thế này (thường là phạt 10$/100 gr) thì lại khen nức nở văn hóa cao, còn cũng dòng chữ đó với người Việt thì lại nghĩ là cái gì đó văn hóa thấp lắm. Không cần thiết phải tự ti đến thế đâu”.

Có thành viên còn lấy dẫn chứng về các trường hợp khách nước ngoài “ăn tham” ở nhà hàng buffet Việt Nam, từ đó cho rằng việc du khách Việt Nam có lấy thừa thức ăn thì cũng chẳng có gì đáng để phê phán.

Tuy vậy, thành viên nick Van Anh (Facebook) cho rằng: “Sự thật như thế nào mình không biết, nhưng mình cho rằng thay vì tìm cách biện hộ, mỗi người chúng ta cần tự rút ra bài học cho bản thân mình trong việc hành xử, đặc biệt là ở xứ người, để những tấm biến như vậy không còn cần thiết phải xuất hiện nữa”.

Quốc Lê tổng hợp
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
Ði Tìm Một Ðịnh Nghĩa Về Tôn Giáo

Thứ sáu, 07 Tháng 9 2012 22:13  
 
Ðây thực ra là một vấn đề không hề đơn giản và dễ dàng như chúng ta thường nghĩ. Có dễ dàng chăng cho chính riêng tôi là một định nghĩa về Kitô giáo, hoặc đơn giản hơn, là một định nghĩa về đạo Công Giáo. Công việc này có lẽ với tôi không khó cho bằng một định nghĩa chung về tôn giáo. Lý do thật đơn giản là vì bản thân tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công Giáo. Sự khó khăn trong việc đi tìm một định nghĩa chung cho hai chữ Tôn Giáo này có lẽ cũng đúng cho trường hợp của một tín hữu Phật Giáo hoặc Cao Ðài, Hòa Hảo, bởi lẽ cái nhìn của họ về tôn giáo cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi đức tin họ đã được tiếp nhận học hỏi.

Sự kiện nhãn quan của mỗi người luôn luôn bị uốn nắn, ảnh hưởng bởi tất cả những gì họ lãnh nhận từ bên ngoài cho ta thấy rõ hai cấu tố tạo thành cuộc sống và cấu trúc suy nghĩ, hành động của con người. Là một con người, trước hết nửa phần của con người của tôi được cấu thành như một sản phẩm phát triển thuộc về sinh vật hay thiên nhiên. Nửa phần kia được tạo nên hay hun đúc bởi những yếu tố đến từ bên ngoài, đó là môi trường giáo dục, huấn luyện, hay những ảnh hưởng văn hóa. Vì thế để có thể tìm một định nghĩa chung cho hai chữ tôn giáo, tôi không thể không nhìn nhận rằng định nghĩa tôi có thể tìm ra được sẽ phản ảnh phần nào bởi chính động lực tự nhiên tiềm tàng sẵn có trong con người tôi hoặc bởi chính những tư tưởng, hoạt động, hay cái nhìn tôi đã thu nhận được trong quá trình học hỏi, hoặc có thể bởI cả hai yếu tố trên. Bởi vậy, nỗ lực tìm một định nghĩa tổng quát về tôn giáo trong bài viết này sẽ là một cuộc khảo sát về bản chất của tôn giáo như là một động lực thúc đẩy tự nhiên sẵn có trong thâm tâm mỗi con người, hay tôn giáo như một yếu tố con người tiếp thu từ bên ngoài do nhu cầu cá nhân hay tập thể thúc đẩy.

Như một yếu tố phát xuất từ bên trong tâm hồn con người mà chúng ta có thể gọi là sự kiện tiền nghiệm (1), chúng ta có thể tự hỏi sự hiện diện của tôn giáo có thể được coi là một sự kiện gắn liền với bản chất của con người và tự phát dưới hình thái của một niềm tin thiêng liêng, những nghi lễ, những quy tắc luân lý, và cả dưới hình thức hội họp chung của cộng đoàn không? Và tôn giáo có phải là một cảm tính, một trực nghiệm, một hình ảnh, hay một ý tưởng phát xuất từ trong tâm tính tự nhiên của con người hay không? Ðể câu trả lời có thể đi sát với thực tại của vấn đề theo nhận định chung của mọi người, chúng ta phải nhận định rằng tôn giáo bắt nguồn từ bản chất của con người như môt động lực vô định hình luôn thúc đẩy con người đi tìm một sự giải thích hay một ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình giữa vũ trụ vạn vật và trong tương quan với đồng loại. Cùng hiện diện với động lực này như mặt thứ hai của một đồng tiền là cảm nhận yếu đuối bất lực phải phụ thuộc hay nương tựa vào một thực tại siêu việt, một thực tại nằm ngoài tầm với của con người nhưng lại có một ảnh hưởng bao quát và sâu xa trên sự hiện hữu của con người.

Thế nhưng có phải tất cả chúng ta đều đồng ý với nhau rằng tất cả mỗi người trong chúng ta đều cảm nhận được sự hiện diện của động lực này và nội dung của cảm nhận của mỗi chúng ta đều giống như nhau. Ðể trả lời chúng ta phải khởi đi từ sự kiện con người là hữu thể có nhận thức và tự nhận thức được chính mình. Với ý thức hoặc hiểu biết, con người có thể nhìn ra được điều gì đang xảy ra chung quanh mình, cho mình, cũng như có thể tự nhìn ra mình là ai, là gì, và mình phải làm gì trong tương quan với vạn vật và đồng loại. Những tác động đó có thể được coi như thuần túy nhắm đến mục đích sinh tồn và phát triển: biết người, biết ta, biết vạn vật là coi như đã biết làm thế nào để đạt được phúc lợi cho mình. Chính trong quá trình tìm hiểu thế giới bên trong và thế giới bên ngoài như vậy mà tâm thức và tâm thức phản tỉnh của con người đã tự nghiệm ra và cố gắng tìm câu trả lời cũng như một sự giải thích cho sự hiện hữu của mình, nguồn gốc, định mệnh của mình, và cho sự việc phải đối đầu với nghịch cảnh của cuộc đời như đau khổ, bệnh tật, chết chóc, sự dữ, bất công. Và chỉ khi nào tìm ra được một ý nghĩa cho cuộc đời, con người mới thực sự can đảm dấn bước trong cuộc hành trình của cuộc đời với chân giá trị tự đặt định cho mình. Như vậy, con người có thể được gọi là ''sinh vật biết ban phát ý nghĩạ''(2)

Tuy nhiên, tới đây chúng ta có thể đặt thêm một câu hỏi là cảm nghiệm về một sự liên hệ với một thực tại siêu việt có nhất thiết phải là một thành phần nội tại gắn liền với động lực đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống hay không. Ở đây một thực tại siêu việt mang ý nghĩa của một sự vật, sự việc, một thực thể nào đó vượt trên thế giới giác quan thông thường của con người, hay một mầu nhiệm siêu nhiên, một đấng thánh thiêng nào đó.(3) Câu hỏi trên có thể được triển khai thêm với câu khẳng định rằng con người là loài có ý thức tôn giáọ Như vậy ta có thể nói rằng con người mang sẵn trong mình "một khao khát nội tạí" hay "một khả năng bẩm sinh" hướng về cảm nghiệm tôn giáo hay không?(4)

Thực ra phương cách giải quyết vấn đề theo lối tiền nghiệm khởi đi từ bản chất và nguồn gốc của sự cảm nghiệm tôn giáo của con người thường đưa đến nhiều tranh cãi nếu cảm nhận đó được coi như vốn sẵn có từ trong thâm tâm và hiện diện như một cảm tính hay một động lực thúc đẩy con người đi tìm kiếm và thiết lập liên hệ với một đấng siêu việt hoặc một sự thánh thiêng nào đó. Dưới cái nhìn của Freud, nhu cầu đi tìm ý nghĩa cho cuộc đời nơi con người có thể là một nhu cầu căn cơ có thật và tiềm tàng nơi bản chất của con người. Nhưng hình ảnh hoặc ý niệm của một đấng siêu nhiên hoặc của một vị thần thánh vẫn chỉ là một lựa chọn hay một ảo tưởng được tạo ra như sản phẩm của những suy nghĩ mang tính chất ước ao mơ mộng của con nít. Ðối với Marx, tôn giáo hiểu như là một sự cổ võ cho sự lệ thuộc hoặc sự hoàn toàn hướng về đời sau, tác động như một thứ thuốc phiện ru ngủ sự phấn đấu của con người. Bị đặt trong hoàn cảnh bất lực, con người thường tự tạo ra cho chính mình những ảo ảnh thiêng liêng về một đấng thần thiêng và rồi chạy đến cầu khẩn xin trợ giúp với tác phẩm tưởng tượng đó của mình. Ngoài ra, có thể sẽ có không ít người không hề cảm nhận thấy một nhu cầu nội tại nào cần phải có một liên hệ với một đấng thiêng liêng nào cả, tuy họ vẫn cảm nhận thấy có một động lực thúc đẩy trong con người của họ để đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống nếu họ không muốn thấy mình phải đương đầu với sự đe dọa bị bơ vơ lạc lõng trong cuộc đời. Ðối với những người này, tiền bạc, thú vui, danh vọng rất dễ dàng biến thành những ngọn nguồn trao ban ý nghĩa hoặc đặt định mục đích cho cuộc sống của họ.

Những khó khăn mà chúng ta gặp phải trong nỗ lực đi tìm một lời giải thích cho sự cảm nhận tôn giáo tiền nghiệm về một nhu cầu liên hệ với đấng thiêng liêng đòi hỏi chúng ta phải tìm đến một phương cách khác. Phương cách này không gì khác hơn là sự giải quyết vấn đề dựa vào những cảm nhận hay kinh nghiệm phụ thuộc có nghĩa là những cảm nhận hay kinh nghiệm đến từ những cảm nhận căn bản hay từ những nhu cầu căn cơ nhất của con người. Theo hướng giải quyết vấn đề như vậy, chúng ta có thể khởi đi từ những kinh nghiệm về những hiện tượng tôn giáo xảy ra trong cuộc sống thực tế của chính chúng tạ Ðể trả lời cho sự chối bỏ sự hiện diện của sự cảm nhận tôn giáo tại bản chất căn cơ của con người, môt sự chối bỏ được nghiên cứu và công bố như những định luật khoa học của chủ thuyết vô thần, chủ thuyết Marxism, chủ thuyết của Freud, chủ thuyết duy khoa học, hay chủ thuyết duy vật, chúng ta có thể quả quyết rằng sự tồn tại lâu dài và sự thích ứng mau lẹ và hợp lẽ của tôn giáo đối với những biến đổi của xã hội và văn hoá đã chứng tỏ một cách mạnh mẽ là cảm nhận tôn giáo phát xuất tự căn nguyên của thân phận con ngườị(5) Cũng vậy, nếu tôn giáo được coi là một trong những nỗ lực của con ngưới nhắm đến việc tìm cho được một ý nghĩa cho cuộc sống, thì chắc chắn tôn giáo phải là nỗ lực kiên cường, bền bỉ, và thỏa đáng nhất khi so sánh với triết học và khoa học.(6)

Với những suy luận rút ra từ những khó khăn nêu trên của hai giải pháp tiền nghiệm và suy luận từ kinh nghiệm, vấn đề nêu ra cho một định nghĩa tổng quát về tôn giáo, như chúng ta thấy, vẫn là một chuyện nan giải. Lý do thứ nhất của sự khó khăn này là sự vô định hình của ước muốn căn nguyên của con người trong việc đi tìm một ý nghĩa cho cuộc sống. Chính với tính vô định hình này mà ước muốn mong tìm ý nghĩa sống đã có thể được thể hiện, tức là được mặc cho một hình thái, một nội dung hoàn toàn tùy thuộc vào chủ thể của ước muốn đó. Nói cách khác, đây là vấn đề của một ước muốn, một cảm nhận được theo đuổi bằng nhiều cách khác biệt và do đó sẽ được cắt nghĩa đôi khi tương phản lẫn nhau. Như đã trình bày ở trên, tôn giáo cũng chỉ được coi là một trong những nỗ lực hoặc câu trả lời dù là câu trả lời thỏa đáng cho ước vọng nàỵ Và vì thế ước muốn đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống vẫn không được coi là yếu tố duy nhất thuộc về tôn giáo, có nghĩa là không phải chỉ nơi tôn giáo người ta mới thấy có niềm ước vọng nàỵ Lý do khó khăn thứ hai hệ tại nơi sự bất đồng ý kiến về bản chất nội tại của hướng vọng của con người đối với một đấng siêu việt hay một thực tại thần thiêng. Tuy nhiên chúng ta vẫn không thể đi ra ngoài khuôn khổ của hai ước vọng căn bản đó của con người trong việc đi tìm một định nghĩa tổng quát cho vấn đề tôn giáo. Và nếu chúng ta muốn giảm thiểu tối đa những trở ngại khó khăn căn bản, phương cách giải quyết của chúng ta sẽ phải là những suy luận từ kinh nghiệm đến từ những sự thể hiện phụ thuộc của những cảm nhận căn nguyên. Từ tiền đề trên, chúng ta có thể đề ra hai đường lối hay hai cách thức để định nghĩa hai chữ tôn giáo.

Trọng tâm thứ nhất liên quan đến nhu cầu căn bản của con người hướng về ý nghĩa của cuộc sống và một lời giải thích cho những vấn nạn của đời người. Chúng ta có thể gọi cách thức này là cách thức định nghĩa dựa theo những chức năng của tôn giáọ Ðặt qua một bên yếu tố căn bản nhất của tôn giáo, yếu tố được coi như căn nguyên hình thành của tôn giáo, đó là sự liên quan đến đấng siêu việt hay một thực tại siêu nhiên, có lẽ chúng ta sẽ chú ý ngay đến những nhiệm vụ của tôn giáo trong việc đáp ứng với nhu cầu tìm lời giải thích cho sự hiện hữu của con người; nói cách khác, chúng ta đang đề cập đến cứu cánh của tôn giáo để từ đó có thể đi đến một định nghĩa xác hợp cho vấn đề tôn giáo.

(xem tiếp phần 2)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
Ði Tìm Một Ðịnh Nghĩa Về Tôn Giáo

(Phần 2)Tiếp theo

Theo ý nghĩa trên, tôn giáo được coi như một phương tiện hay một môi trường mà nhờ đó con người có thể tìm ra được "một hệ thống biểu trưng" để xử dụng như một sơ đồ hoạch định cho việc tìm hiểu về thế giới vũ trụ.(7) Tôn giáo, như Paul Tillich đã định nghĩa, là "sự quan tâm chủ yếu cuối cùng theo nghĩa rộng nhất và cơ bản nhất của từ ngữ."(8) Như vậy, với một cái nhìn tinh tế và bao quát nhất về tôn giáo theo quan niệm tôn giáo là một câu trả lời cho công cuộc truy tầm ý nghĩa sống của con người, tôn giáo được coi là một hệ thống chuyên chở ý nghĩa nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tri thức, tình cảm, và xã hội của con người. Như Roger Schmidt đã vạch ra, nhiệm vụ tri thức của tôn giáo là cung cấp cho con người một lời giải thích về ''căn nguyên và sự vận hành của vạn vật.''(9) Dưới cái nhìn mang tính cách vũ trụ học và thần học của tôn giáo, con người hy vọng có thể tìm ra được vị thế hay chỗ đứng của mình trong vũ trụ cùng với định mệnh của mình trong cuộc đờị Mang hình thái của những tín lý, giáo lý, hay niềm tin, tôn giáo là câu trả lời cho trí óc tìm tòi học hỏi, khao khát hiểu biết của con người về chính mình, về người khác, và về vũ trụ. Thêm vào những niềm tin hay những tri thức này, những sinh hoạt nghi lễ, phụng vụ và những cuộc tạo dựng hay nhóm họp cộng đồng mang lại sự trợ giúp cho con người trong việc bày tỏ, phát biểu, diễn tả những cảm xúc của mình trong việc đối đầu với những vấn nạn của của cuộc đời như đau khổ, lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, hay vui mừng.(10) Cũng vậy, khung cảnh sinh hoạt mang tính cách xã hội của tôn giáo đã góp phần không ít vào sự ổn định và điều hòa xã hội nhờ việc đem đến cho cá nhân con người một ý nghĩa sâu xa của sư tương giao với người khác, một căn tính mà cá nhân con người cảm thấy có nhiều giá trị, và một nền luân lý giúp con người sống trổi vượt hơn vạn vật vũ trụ. Thật vậy, trong khung cảnh sinh hoạt hợp quần này, cộng đồng tôn giáo hoạt động như một nguồn trợ lực và khuyến khích thúc đẩy đối với mỗi cá nhân bằng những hoạt động như chia sẻ cùng một niềm tin hay thi hành cùng một nghi lễ tôn giáo.(11)

Tuy nhiên, sự khó khăn tồn đọng trong định nghĩa dựa vào chức năng tôn giáo, như đã nói ở những phần trên, phát sinh từ tính vô định hình hay tính bao quát của tôn giáo. Nói cách khác, định nghĩa theo phương pháp dựa trên chức năng của tôn giáo đã vô hình trung bao gồm quá nhiều hiện tượng và tình huống sinh hoạt xã hội của con người đến mức trở thành quá rộng rãi và mơ hồ. Mức độ bao quát này cho phép chúng ta có thể nói rằng dựa trên chức năng nhằm tìm ra ý nghĩa cuộc sống, bất kỳ nỗ lực hay công trình nào của con người cũng đều có thể dễ dàng được xếp chung vào cùng một phạm trù với tôn giáo. Triết học chắc chắn cũng sẽ được coi như là một cố gắng của con người nhắm tới mục đích cắt nghĩa ''căn nguyên và sự vận hành của vạn vật.'' Khoa học sẽ là một quyết tâm khác với cùng một trọng tâm là mang lại ý nghĩa cho tất cả mọi biến cố xảy ra chung quanh chúng ta và ngay trong chính con người chúng ta. Như một ví dụ, chủ nghĩa Marxism, một chủ thuyết vô thần, đã có thể lôi cuốn được rất nhiều người bởi việc đã đem lại cho họ một viễn ảnh của nguồn gốc và định mệnh con người cũng như đã tạo cho họ một cơ hội, một môi trường giúp họ nói lên được những uất ức đối kháng với thực tại chung quanh, một cách thức để hành xử, và hơn nữa đã tạo dựng cho họ một sự kết đoàn cần thiết cho nhu cầu quan trọng của cá nhân con ngườI, đó là nhu cầu cần có một căn tính mang nhiều ý nghĩa và một niềm tin vào chân lý tự tìm ra và theo đuổi. Suy luận tới đây, chúng ta có thể nhận ra được sự liên hệ mật thiết giữa yếu tố kế tiếp, là yếu tố của sự liên quan của con người với đấng siêu việt, và yếu tố của động lực đi tìm ý nghĩa sống. Yếu tố thứ hai kể trên là điều kiện ắt có, và yếu tố thứ nhất là điều kiện đủ cho một định nghĩa tổng quát về tôn giáo.

Thực vậy, chúng ta phải tự hỏi rằng làm cách nào chúng ta có thể phân biệt được sự khác biệt giữa nỗ lực mang tính cách tôn giáo và nỗ lực mang những tính cách không tôn giáo trong vấn nạn của sự hiện hữu của con người. Bởi lẽ chủ thuyết Marxism, là một ý thức hệ trần tục hay một vũ trụ quan vô thần, vẫn có thể dễ dàng hoạt động với tư cách một tôn giáo. Do đó chúng ta sẽ thấy yếu tố của sự liên quan đến đấng siêu việt đóng một vai trò thiết yếu cho việc phân biệt nói trên. Ðặt qua một bên điểm bất đồng còn tồn tại về thực chất của cảm nhận căn nguyên của con người hướng về đấng siêu việt, chúng ta có thể đi đến một định nghĩa rõ nét và chủ yếu hơn về tôn giáo, một định nghĩa làm nổi bật nét đặc thù của tôn giáo. Nét đặc thù đó không gì khác hơn là chiều kích vươn cao của con người theo hướng thẳng đứng trong liên quan giữa con người và đấng siêu việt như vẫn được đề cập tới ở các phần trên. Chiều kích này được diễn tả đầy đủ trong định nghĩa của Luther về tôn giáo: tôn giáo là''một mầu nhiệm vĩ đại và cuốn hút'' đối với con người (mysterium tremendum et fascinans).(12) Hoặc như Edward B. Tylor đã nhấn mạnh, trung tâm điểm của tôn giáo nằm ở ''niềm tin vào những Hữu Thể Thiêng Liêng.'' (13)

Thế nhưng vấn đề được đặt ra đối với cách định nghĩa trên là quan điểm nhị nguyên tiềm tàng trong việc đặt định thực tại ra làm hai, nhân bản và thần thiêng.(14) Quan điểm này còn dẫn tới sự bế tắc của việc áp dụng chung định nghĩa trên cho cả hai truyền thống hữu thần và phi thần (theistic and non-theistic).(15) Khó khăn thứ nhất mà chúng ta có thể kiểm nhận được là khó khăn có liên quan đến việc lãnh hội của một người không cùng một niềm tin hoặc không theo một niềm tin tôn giáo nàọ Ðối với người trong cuộc, tức ngưới mang niềm tin tôn giáo, thì sự phân đôi cuộc sống con người hoặc việc đặt để con người vào lãnh vực trần thế và đấng thiêng liêng vào lãnh vực siêu nhiên có thể hiểu được và được chấp nhận dễ dàng nhờ niềm tin vào sức mạnh biến đổi của đấng siêu việt hoặc nhờ chức năng hòa nhập hai thế giới đó của tôn giáọ Nhưng đối với người ngoài cuộc hoặc không theo niềm tin tôn giáo, thì vấn đề trở nên khó khăn hơn, bởi họ không có cái nhìn thấm nhiễm niềm tin tôn giáo cũng không cảm nhận được nhịp cầu thông giao cá nhân giữa con người và đấng siêu nhiên. Thực thế, cảm nhận tôn giáo tác động như một lăng kính qua đó một cá nhân sẽ luôn nhìn cuộc đời dưới nhãn quan của sự tương quan với đấng thánh thiêng. Do đó, mọi sự, mọi việc sẽ không thể xuất hiện tương tự dưới cùng một hình thức và mang cùng một ý nghĩa với người có một niềm tin tôn giáo và người không theo niềm tin đó. Vấn đề nhị nguyên nếu có khúc mắc hay chăng là đối với người không mang niềm tin tôn giáo, tuy vậy sự khúc mắc này lại đưa chúng ta đến khó khăn là sẽ không thể đưa ra được một định nghĩa chung mà tất cả mọi người có thể dễ dàng chấp nhận và dễ dàng lãnh hội.

Thứ đến đối với sự thiếu sót của định nghĩa dựa trên yếu tố của sự liên quan đến đấng siêu việt trong việc loại bỏ truyền thống phi thần như không đủ tiêu chuẩn của một tôn giáo, tỷ dụ như Khổng Giáo hay Phật Giáo, chúng ta cần phải xác định lại ý nghĩa bao quát của từ ngữ đấng siêu việt hay thực tại thần linh mà chúng ta đã xử dụng. Chúng ta thường xử dụng từ ngữ này để chỉ không những một hay nhiều vị thần thánh có bản vị mà còn để chỉ một thực tại hay một cảnh vực tuy khác nhưng vẫn có liên hệ đến thực tại chúng ta đang sống. Ý nghĩa bao quát hơn này giúp chúng ta có thể phân định Khổng Giáo và Phật Giáo vào cùng một định nghĩa của tôn giáo hiểu như là một con đường, một phương cách để nối liền tương quan giữa thực tại giác quan của con người và thực tại vượt trên giác quan, mặc dù hai truyền thống tôn giáo này đều không hề đề cập đến sự lệ thuộc hoàn toàn của con người vào một hoặc nhiều thực thể thần linh.


Như một vấn nạn tạo ra bởi yếu tố đặc thù là sự liên quan hay không liên quan đến thần linh, cách thức định nghĩa trên đã cho thấy những tính cách hạn hẹp, thiếu sót, siêu thực, và bị giới hạn trong tính cục bộ của lịch sử và văn hóa của một định nghĩa chủ yếu dựa trên yếu tố của sự tương giao của con người với thần linh. Vì thế, chúng ta cần phải xử dụng và phối hợp cả hai cách thức định nghĩa dựa trên chức năng và dựa trên yếu tố của việc liên quan đến thần linh trong nỗ lực đạt đến một quan điểm chung về tôn giáo, một quan điểm có thể áp dụng rộng rãi có giá trị chung cho tất cả mọi sinh hoạt có hình thức tôn giáo và do đó sẽ giúp chúng ta thực hiện dễ dàng công việc liệt kê một cách đầy đủ hơn những thành phần cấu tạo của tôn giáo.

Thực vậy, những suy luận nêu trên về một định nghĩa hai mặt về vấn đề tôn giáo đã giúp chúng ta nhận định được ba chiều kích của sự hiện hữu của con người dưới ánh sáng của sự cảm nhận của con người đối với thực thể siêu việt: chiều thẳng, chiều ngang hướng ngoại, và chiều ngang hướng nội. Chiều kích thứ nhất mà chúng ta đề cập đến là tương quan giữa con người và đấng siêu việt. Ðể có thể đi vào chiều kích này, con người cần đến sự hoán cải, hoặc mạc khải, hoặc đức tin bằng những phương cách ngoại tại mang hình thái của tín điều, niềm tin, giáo thuyết, hay thần thoại. Nghi lễ phụng tự hay những hoạt động mang tính cách biểu trưng khác cũng góp phần vào việc thiết lập tương quan chiều thẳng này. Những tiêu chuẩn luân lý thì nhắm đến mục tiêu thanh tẩy hoặc công chính hóa cuộc sống của mỗi cá nhân.

(Xem tiếp phần 3)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
Ði Tìm Một Ðịnh Nghĩa Về Tôn Giáo

(Phần 3)Tiếp theo và hết.

Chiều kích thứ hai của tôn giáo là tương quan phản tỉnh hàng ngang của cá nhân đối với chính con người của mình. Cũng thế, dưới ảnh hưởng của tương quan thiết lập giữa con người và thần linh, cá nhân con người có thể đưa ra xử dụng tất cả những gì lãnh hội được từ những cảm nghiệm hay những dữ kiện liên quan tới thần thoại, đức tin, tín lý, đạo đức, hay phụng tự để tạo sự sinh động hay sự tái sinh cho chính cuộc đời của mình, hay để gợi lên cũng như làm hài hòa tất cả những cảm tính hay những xúc cảm mà cá nhân con người cần đến hay gặp phải trong cuộc sống. Chiều kích thứ ba hệ tại nơi cộng đoàn hay tập thể, là môi trường mà trong đó mỗi cá nhân con người có thể thực hiện mối liên kết với người khác trong tập thể trên nền tảng của các tiêu chuẩn luân lý đã được đề ra trong tôn giáo của tập thể đó. Nhờ vào sự thiết lập mối giây liên kết có tính cách tập thể và rập theo một tiêu luân lý này mà mỗi cá nhân sẽ có thể xác lập được căn tính và vị trí của mình, và sự xác lập này sẽ giúp cho mỗi cá nhân cảm thấy dễ dàng hơn khi tiến bước trong hành trình của cuộc đời cùng với tập thể trong sự tương trợ và tương kính.

Dựa vào những lý luận và quan sát trên, tôi xin mượn định nghĩa về tôn giáo được đề cập đến trong cuốn sách nhan đề Sự Truy Tầm Thánh Thiêng -- Một Lời Mời Gọi Học Hỏi Về Tôn Giáo (The Sacred Quest -- An Invitation to The Study of Religion) để tóm gọn tầm nhìn của tôi về tôn giáo với bốn yếu tố cấu thành: "Tôn giáo biểu thị những cách nhìn về thế giới, và những cách nhìn này (thứ nhất) có đề cập đến một khái niệm về thực tại thần thiêng (thứ nhì) được thể hiện nơi cảm nhận của con người (thứ ba) theo một cách thức đưa đến việc tạo nên những đường lối có tác dụng mạnh mẽ và lâu bền trong cung cách suy nghĩ, cảm xúc, và hành xử (thứ bốn) đối với những vấn đề của việc nhận biết và trật tự hóa sự hiện hữú" (16). Ngoài ra, tôi xin thêm vào đó chiều kích thứ ba đã được nói đến trong phần trên để có thể giúp cho câu định nghĩa của chúng ta được phổ quát hơn: (thứ năm) đó là những cung cách suy nghĩ, cảm xúc, và hành xử được thực hiện với tư cách cá nhân trong tương quan và trong môi trường của cộng đồng.

Sau khi đã duyệt xét tất cả những phương cách giải quyết tiền nhiệm cũng như dựa vào kinh nghiệm nêu trên, cũng như sau khi đã suy xét về một định nghĩa hai mặt về tôn giáo và kể cả việc cố gắng đưa ra một danh sách liệt kê những cấu tố chính của tôn giáo, ở đây tôi đã có thể nói được hay không rằng việc tìm hiểu của tôi về một định nghĩa tổng quát về tôn giáo dựa trên nghiên cứu cũng như cảm nhận tôn giáo cá nhân của riêng tôi đã đưa ra được kết quả là một cái nhìn khách quan và phổ quát về tôn giáo như một người ngoài cuộc không theo một niềm tin tôn giáo nào hoặc nếu có thì niềm tin của họ hoàn toàn không tương ứng với niềm tin của tôỉ Hoặc giả ý niệm của tôi về tôn giáo đã có thể nói được rằng đã phát xuất từ cảm nhận cá nhân riêng tư và chủ quan của tôi cũng như đã từ sự hành đạo của tôi trong đức tin Công Giáo. Ðặt câu hỏi một cách khác, phải chăng tôi đã chỉ đưa ra được một hình ảnh về tôn giáo theo đúng nhãn quan của một người trong cuộc tức là một ngưới có mang một niềm tin tôn giáo.

Câu trả lời sẽ là câu khẳng định cho câu hỏi thứ hai và thứ ba. Quả thực, định nghĩa sau cùng mà tôi đã suy luận, biên soạn, và đề nghị đã phản ảnh quá trình sống đạo và những quan niệm tiên kiến của tôi về tôn giáo. Vấn đề có liên quan đến yếu tố của đấng siêu việt là một ví dụ điển hình về sự thiên kiến sẵn có từ trong nỗ lực của tôi trong việc đi tìm một định nghĩa khách quan cho sự kiện tôn giáo. Thực vậy, tôi tự cảm thấy không thể giải quyết tận căn vấn nạn về chứng cớ của định hướng tự hữu trong bản tính con người về sự tương quan với đấng thần thánh. Vấn nạn này có lẽ cần phải đòi hỏi nhiều thời gian hơn cho những cuộc tranh luận và nghiên cứu triết học và thần học. Thế nên, sự việc tôi đã bỏ qua không giải quyết đến tận cùng vấn nạn này để đạt tới một định nghĩa cụ thể về tôn giáo phần nào đã chứng tỏ sự kiện tôi luôn sẵn sàng và dễ dàng chấp nhận không cần suy xét cặn kẽ những điều kiện của sự hiện hữu của đấng siêu việt và tương quan giữa thực tại thần thiêng này với con người.

Thực ra, như một người trong cuộc nhắm giải quyết vấn đề tôn giáo bằng chính kinh nghiệm tiếp cận trực tiếp và như vậy là chủ quan của mình, tôi có thể đưa ra nhận xét là công việc của mình làm tựa như công việc của một nhà thần học hoặc của một tín hữu đã quen nhìn mọi việc, mọi vật theo cái nhìm thấm nhiễm niềm tin tôn giáo của mình. Tuy nhiên sự cố gắng để đạt tới một cái nhìn khách quan và liên đới về văn hóa và truyền thống tôn giáo cũng vẫn nên được chấp nhận, dù rằng những sự quan sát hạn hẹp và những suy luận đơn giản tỏ ra không đủ sâu xa và rộng rãi để có thể được gọi là những sự quan sát và suy luận của người trong cuộc. Thế nên, sự nhận chân ra vấn đề nan giải của việc đi tìm một định nghĩa chung cho vấn đề tôn giáo dù sao đi nữa cũng đã đạt được bước đầu cần thiết cho những nỗ lực quan trọng kế tiếp trong việc tìm hiểu bản chất của tôn giáo.

Stephanô Nguyễn Mạnh Khả

CHÚ THÍCH

(1) A priori, xin được tạm dịch là tiền kinh nghiệm áp dụng cho những cảm nhận hoặc nguyên lý suy luận tiềm tàng sẵn trong cách suy nghĩ, cảm xúc của con người mà không cần đến những kinh nghiệm của giác quan để chứng minh sự hiện diện của nó.
(2) Roger Schmidt, Exploring Religion. Belmont, CA: Wadsworth Pub. Co, 1988, 7.
(4) Schmidt, 6.
(5) Ibid., 4.
(6) Ibid., 13-4.
(7) Keith Ạ Roberts, Religion In Sociological Perspectivẹ Belmont, CA: Wadsworth Pub. Cọ, 1990, 6-7.
(8) Larence S. Cunningham et al, The Sacred Quest -- An Invitation to The Study of Religion. NY: MacMillan Pub. Cọ, 1991, 25.
(9) Schmidt, 13.
(10) Ibid., 12.
(11) Ibid., 12.
(12) Cunningham, 15.
(13) Roberts, 3.
(14) Ibid., 4.
(15) Schmidt, 10.
(16) Cunningham, 26.


SÁCH TRÍCH DẪN

Cunningham, Lawrence S. et al. The Sacred Quest -- An Invitation to The Study of Religion. NY: MacMillan Pub. Co, 1991.
Comstock, Gary L. Religious Autobiographies. Belmont, CA: Wadsworth Pub. Co, 1995.
Roberts, Keith Ạ Religion in Sociological Perspectivẹ Belmont, CA: Wadsworth Pub. Cọ, 1990.
Schmidt, Roger. Exploring Religion. Belmont, CA: Wadsworth Pub. Co 1998.

Nguồn:simonhoadalat.com
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 55 trang (547 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] ... ›Trang sau »Trang cuối