15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
3 bài trả lời: 3 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/02/2015 11:17

發同谷縣

賢有不黔突,
聖有不暖席。
況我饑愚人,
焉能尚安宅。
始來茲山中,
休駕喜地僻。
奈何迫物累,
一歲四行役。
忡忡去絕境,
杳杳更遠適。
停驂龍潭雲,
回首虎崖石。
臨岐別數子,
握手淚再滴。
交情無舊深,
窮老多慘戚。
平生懶拙意,
偶值棲遁跡。
去住與願違,
仰慚林間翮。

 

Phát Đồng Cốc huyện

Hiền hữu bất linh đột,
Thánh hữu bất noãn tịch.
Huống ngã cơ ngu nhân,
Yên năng thượng an trạch?
Thuỷ lai tư sơn trung,
Hưu giá hỉ địa tịch.
Nại hà bức vật luỵ,
Nhất tuế tứ hành dịch.
Sung sung khứ tuyệt cảnh,
Diểu diểu cánh viễn thích.
Đình tham Long Đàm vân,
Hồi thủ Hổ Nham thạch.
Lâm kỳ biệt số tử,
Ác thủ lệ tái trích.
Giao tình vô cựu thâm,
Cùng lão đa thảm thích.
Bình sinh lãn chuyết ý,
Ngẫu trị thê độn tích.
Khứ trụ dữ nguyện vi,
Ngưỡng tàm lâm gian cách.

 

Dịch nghĩa

Người hiền không có ống khói đen,
Bậc thánh không ngồi ấm chiếu.
Huống chi tôi đây, một kẻ ngu nghèo đói,
Thì làm sao mà ở yên một chỗ được!
Hồi đầu tới chỗ xóm núi này,
Mừng được có nơi vắng vẻ.
Đâu nỡ làm thay đổi tính vật,
Một năm có bốn mùa.
Lo lắng bỏ cảnh đẹp này,
Hoang mang lại phải đi xa.
Dừng ngựa coi mây nơi Long Đàm,
Ngoảnh đầu trông núi Hổ Nham.
Khi chia tay từ biệt nhiều người,
Nắm tay lệ lại tuôn trào.
Tình nghĩa đi lại chưa lâu lắm,
Mà vì lão già tính dễ xúc động.
Thường ra mình vốn là kẻ vụng về,
Bị trôi dạt vào cái chỗ ẩn tích này,
Nhìn lên thấy ngượng,
Với đàn chim trong khu rừng.


(Năm 759)

Lời tự: “Càn Nguyên nhị niên nhị thập nhất nhật tự Lũng Hữu phó Kiếm Nam kỷ hành” 幹元二年十二月一日自隴右赴劍南紀行 (Thuật lại chuyến đi vào năm Càn Nguyên thứ hai 759, ngày mồng một tháng mười hai từ Lũng Hữu tới Kiếm Nam).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Kẻ hiền không bếp khói,
Bậc thánh chẳng ấm giường.
Huống ta lão ngu đói,
Thân sao có chỗ nương.
Lúc đầu tới vùng núi,
Chỗ vắng lặng, vui mừng.
Tính vật nào dám đổi,
Bốn mùa, năm giáp vòng.
Những lo bỏ cảnh tốt,
Ra đi lại long đong.
Mây Long Đàm dừng ngắm,
Núi Hổ Nham ngoảnh trông.
Biệt ly cùng vài bạn,
Nắm tay lệ chảy ròng.
Chưa được quen thân lắm,
Tuổi già dễ mủi lòng.
Đời mình vốn vụng tính,
Bỗng tới nơi kín bưng.
Rời nơi này quyết đổi,
Thấy thẹn cùng chim rừng.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Người Hiền bếp khói lạnh tanh,
Thánh ngồi chẳng ấm được manh chiếu nào.
Ta ngu, nghèo, đói, sánh sao,
Lại mong tìm được chốn nào ấm êm.
Núi rừng nghĩ đến trước tiên,
Ngưng tìm xe ngựa, vui miền lặng yên.
Vật đâu dám đổi, để nguyên,
Bốn mùa thay đổi nhau liền mỗi năm.
Bồn chồn, bỏ cảnh đẹp chăng?
Long đong, lại phải dứt lòng đi thôi!
Long Đàm, ngừng, ngắm mây trôi,
Hổ Nham, ngoảnh lại, núi đồi xanh tươi.
Chia tay từ biệt mọi người,
Nắm tay, lệ lại tuôn rơi từng hồi.
Giao tình cũng mới đây thôi,
Thân già nghèo khổ dễ khơi thảm sầu.
Cuộc đời vụng tính từ lâu,
Cho nên đến ẩn chốn sâu thẳm này.
Ra đi lỗi hẹn rồi đây,
Ngửa trông rừng, thẹn với bầy chim kia...

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Người hiền bếp còn không ống khói
Thánh nhân không chiếu ấm mà nằm
Huống ta ngu ngốc đói ăn
Làm sao có một căn nhà an cư
Ban đầu tới xóm kia núi nọ
Ngừng xe mừng gặp chỗ đất bằng
Ai dè rước luỵ vào thân
Một niên nhà dọn tới năm ba lần
Lòng lo buồn rời nơi cùng quẫn
Càng đi càng thấy thăm thẳm dài
Long Đàm ngừng ngắm trời mây
Quay đầu nhìn lại Hổ Nhai núi dài
Lúc ra đi mọi người từ biệt
Mỗi nắm tay là khiến lệ rơi
Xã giao cũng mới đây thôi
Nhưng người cùng khổ đầy vơi thảm sầu
Bình sinh ta vốn lười và vụng
Nay ngẫu nhiên im lặng tìm nhà
Ở, đi chưa quyết lòng ta
Trông lên mà thẹn tổ xa chim về.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời