15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
2 bài trả lời: 2 bản dịch

Đăng bởi Vanachi vào 15/03/2014 16:58

聶耒陽以僕阻水書致酒肉療肌,荒江詩得代懷興盡本韻至縣呈聶令,陸路去方田驛,四十里舟行一日,時屬江漲,泊於方田

耒陽馳尺素,
見訪荒江眇。
義士烈女家,
風流吾賢紹。
昨見狄相孫,
許公人倫表。
前期翰林後,
屈跡縣邑小。
知我礙湍濤,
半旬獲浩溔。
麾下殺元戎,
湖邊有飛旐。
孤舟增鬱鬱,
僻路殊悄悄。
側驚猿猱捷,
仰羨鸛鶴矯。
禮過宰肥羊,
愁當置清醥。
人非西喻蜀,
興在北坑趙。
方行郴岸靜,
未話長沙擾。
崔師乞已至,
澧卒用矜少。
問罪消息真,
開顏憩亭沼。

 

Nhiếp Lỗi Dương dĩ bộc trở thuỷ thư trí tửu nhục liệu cơ, hoang giang thi đắc đại hoài hứng tận bản vận chí huyện trình Nhiếp lệnh, lục lộ khứ Phương Điền dịch tứ thập lý chu hành nhất nhật, thì thuộc giang trướng bạc ư Phương Điền

Lỗi dương trì xích tố,
Kiến phỏng hoang giang miễu.
Nghĩa sĩ liệt nữ gia,
Phong lưu ngô hiền thiệu.
Tạc kiến Địch tương tôn,
Hứa công nhân luân biểu.
Tiền kỳ hàn lâm hậu,
Khuất tích huyện ấp tiểu.
Tri ngã ngại thoan đào,
Bán tuần hoạch hạo diệu.
Huy hạ sát nguyên nhung,
Hồ biên hữu phi triệu.
Cô chu tăng uất uất,
Tích lộ thù tiễu tiễu.
Trắc kinh viên nhu tiệp,
Ngưỡng tiện quán hạc kiểu.
Lễ quá tể phì dương,
Sầu đương trí thanh phiêu.
Nhân phi tây dụ thục,
Hứng tại bắc khanh triệu.
Phương hành Sâm ngạn tĩnh,
Vị thoại Trường Sa nhiễu.
Thôi sư khất dĩ chí,
Lễ tốt dụng căng thiểu.
Vấn tội tiêu tức chân,
Khai nhan khế đình chiểu.

 

Dịch nghĩa

Ông Nhiếp ở Lỗi Dương gửi gấp tấc giấy mỏng,
Để thăm hỏi kẻ nơi mom sông vắng này.
Vốn con nhà nghĩa liệt,
Ông người hiền kế tục được nếp phong lưu.
Trước kia gặp cháu ông Địch,
Khen ông hiện thân cho tình người.
Trước đó làm việc ở hàn lâm,
Rồi nương náu nơi huyện nhỏ này.
Hay tin tôi bị lũ ngăn,
Nửa tuần nước càng lên lớn.
Dưới cờ giết viên chỉ huy,
Bên hồ có cờ hiệu bay.
Thuyền đơn độc càng thêm sôi sục,
Lối hẹp chưa hết lo lắng.
Thấy kinh vượn khỉ leo ngang,
Ngước thèm như hạc lượn.
Lễ hậu hơn dê béo mang cúng,
Sầu đọng nơi men trong.
Người ta chẳng phải phía tây thì tìm hiểu chuyện ở Thục,
Cứ hăng tiết say lên ở phía bắc giết Triệu.
Mới đi bên bờ Bân vắng,
Chưa nói đến nhiễu nhương nơi Trường Sa.
Quân mà họ Thôi xin cầu viện đã tới,
Lính của châu Lễ dùng hơi thiếu.
Hỏi tội cho rõ nguồn cơn,
Nét mặt phởn phơ khi nghỉ ở ao đình.


(Năm 770)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Lỗi Dương đưa mảnh tờ
Sông vắng phiền thăm hỏi
Vốn nhà trung liệt xưa
Nền nếp để dòng dõi
Hôm gặp cháu cụ Địch
Khen ông người thật giỏi
Dòng quan hàn lâm xưa
Huyện nhỏ tạm chịu tủi
Biết tôi mắc cơn lũ
Nửa tuần nước lên bội
Dưới cờ giết nguyên nhung
Mặt sóng, minh tinh chói
Bạo bực buộc con thuyền
Hẻo lánh dứt đường lối
Cò vạc bay không thèm
Vượn khỉ leo, ngán nỗi
Lễ đưa dê béo bày
Buồn sẵn rượu trong dội
Quân ấy đáng chôn sống
Hạng nó hoài hơi nói
Đương ở bờ Bân vắng
Chưa rõ Trường Sa rối
Quân Thôi xin đã đến
Lính Lễ khí ít ỏi
Tươi cười nghỉ trước đình
Ngóng tin quân hỏi tội


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Lỗi Dương tấc mỏng gửi
Nơi sông vắng thăm hỏi.
Nghĩa liệt vốn con nhà,
Phong lưu giữ dòng dõi,
Trước gặp cháu tướng Địch,
Khen ông nhân luân chói.
Sau khi rời hàn lâm,
Huyện nhỏ, thân thui thủi.
Biết tôi gặp nước truồi,
Nửa tuần đã ngập lối.
Dưới cờ giết chỉ huy,
Bên hồ cờ phất phới.
Thêm sôi sục thuyền con,
Đường nhỏ càng bối rối.
Nghiêng, sợ khỉ vượn đu,
Ngửa, thèm cò vạc sải.
Lễ vượt dê béo thờ,
Rượu trong, sầu vời vợi.
Tây Thục người chẳng vơ,
Bắc Triệu, muốn giết trọi.
Bờ Bân yên mới đi,
Trường Sa loạn chưa nói.
Binh Lễ dùng không nhiều,
Lính Thôi xin đã tới.
Vui cười trước ao đình,
Ngóng tin quân hỏi tội.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời