泥功山

朝行青泥上,
暮在青泥中。
泥濘非一時,
版築勞人功。
不畏道途永,
乃將汩沒同。
白馬為鐵驪,
小兒成老翁。
哀猿透卻墜,
死鹿力所窮。
寄語北來人,
後來莫匆匆。

 

Nê Công sơn

Triêu hành Thanh Nê thượng,
Mộ tại Thanh Nê trung.
Nê nính phi nhất thì,
Bản trúc lao nhân công.
Bất uý đạo đồ vĩnh,
Nãi tương mịch một đồng.
Bạch mã vi thiết lị,
Tiểu nhi thành lão ông.
Ai viên thấu khước truỵ,
Tử lộc lực sở cùng.
Kí ngữ bắc lai nhân,
Hậu lai mạc thông thông.

 

Dịch nghĩa

Sáng đi trên đỉnh Thanh Nê,
Chiều ở giữa Thanh Nê.
Bùn lầy đâu phải chỉ trong chốc lát,
Nhưng lắp ván làm làm lối đi khiến bao người khó nhọc.
Chẳng ngại đường dài hun hút,
Mà cứ bì bõm hoài.
Ngựa trắng thành đen đủi như sắt,
Con nít trở nên ông già.
Khỉ rầu rĩ vì leo mà còn té trượt,
Nai chết vì kiệt lực đi trên con đường này.
Xin nhắn lời cho những người từ phương bắc tới,
Đi sau chớ có bước vội!


(Năm 759)

Tiêu đề chữ Hán trong "Đường thư" chép là 泥公山.

Lời tự: "Trinh Nguyên ngũ niên vu Đồng Cốc tây cảnh Nê Công sơn quyền trị hành Thành Châu" 貞元五年于同谷西境泥公山權置行成州 (Năm Trinh Nguyên thứ năm 789, cho tới vùng phía tây Đồng Cốc núi Nê Công về quyền hành chính được đặt dưới châu).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Sáng, Thanh Nê chóp đỉnh,
Chiều, Thanh Nê giữa lòng.
Bùn lầy chẳng một quãng,
Lắp ván biết bao công.
Chẳng sợ đường hun hút,
Cứ ngoi ngóp đi cùng.
Ngựa trắng hoá đen sạm,
Con nít bỗng thành ông.
Nai chết vì kiệt sức,
Vượn khổ té lăn đùng.
Xin nhắn kẻ từ bắc,
Đi sau hãy coi chừng.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Sáng đi trên đỉnh Thanh Nê,
Chiều về vào giữa Thanh Nê non nầy.
Phải đâu chốc lát bùn lầy,
Lối đi lắp ván khiến người nhọc đi.
Đường dài chẳng ngại xa gì,
Mà còn bì bõm hoài thì khó ra.
Thành đen ngựa trắng sắt pha,
Trẻ con lại trở ông già ốm teo.
Khỉ rầu té trượt vì leo,
Nai vì kiệt lực chết theo đường này.
Nhắn tin người bắc lời hay,
Đi sau chớ vội bước ngay đề phòng!

Chưa có đánh giá nào
Trả lời