第五弟豐獨在江左近三四載寂無消息,覓使寄此其一

亂後嗟吾在,
羈棲見汝難。
草黃騏驥病,
沙晚鶺鴒寒。
楚設關城險,
吳吞水府寬。
十年朝夕淚,
衣袖不曾乾。

 

Đệ ngũ đệ Phong độc tại Giang Tả cận tam tứ tải tịch vô tiêu tức, mịch sứ ký thử kỳ 1

Loạn hậu ta ngô tại,
Ky thê kiến nhữ nan.
Thảo hoàng kỳ ký bệnh,
Sa vãn tích linh hàn.
Sở thiết quan thành hiểm,
Ngô thôn thuỷ phủ khoan.
Thập niên triêu tịch lệ,
Y tụ bất tằng can.

 

Dịch nghĩa

Sau cơn loạn lạc, may mà ta còn đây,
Sống lưu lạc xứ người ta nên khó mà thấy em.
Cỏ úa vàng làm các con ngựa giống không khoẻ,
Buổi chiều chim chìa vôi chịu lạnh ngoài bãi sông.
Quan ải đất Sở xây cất nơi hiểm trở khó qua,
Sông xứ Ngô rộng dễ làm người chết đuối.
Từ sáng tới chiều trong mười năm nay,
Tay áo không lúc nào khô nước mắt.


(Năm 767)

Vì Thành Đô có loạn, Đỗ Phủ đưa gia quyến xuống thuyền lánh xuống phía nam tạm trú tại Quỳ châu, cất nhà mới, sống đời nông dân. Giang Tả là dải đất nay giữa hai tỉnh Giang Tô và Chiết Giang.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

May còn đây sau cơn loạn lạc
Nơi xứ người khó được thấy em
Cỏ vàng ngựa giống hom hem
Buổi chiều run lạnh lũ chim bên ngòi
Quan ải Sở ôi thôi hiểm trở
Sông xứ Ngô rộng khó vượt qua
Sớm chiều suốt chục năm qua
Lệ lau tay áo khó mà được khô

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Sau loạn anh vất vả,
Quê người khó gặp nhau.
Bãi vắng tu hú lạnh,
Cỏ vàng ngựa nòi đau.
Thành Sở xây hiểm trở,
Sông Ngô nước chảy mau.
Mười năm lệ luôn chảy,
Vạt áo cứ ướt nhàu.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời